BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC
Hiển thị các bài đăng có nhãn VĂN HỌC NGHỆ THUẬT. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn VĂN HỌC NGHỆ THUẬT. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 10 tháng 12, 2012

THƠ NGUYỄN ĐỨC TÙNG - HẠ CÁNH XUỐNG BẰNG MỘT ĐƯỜNG BAY NGẮN - Nguyễn Thuỵ Kha


       
               Nhà thơ - nhạc sĩ  NGUYỄN THỤY KHA.  

Kể mà không cổ. Lạnh mà cháy như rượu 96 độ. Nhịp mà không phải nhịp cũ xưa, căng không thể chùng lại. Không khước từ nhưng muốn truyền thống được phẫu thuật bằng con dao hôm nay.
Thơ Nguyễn Đức Tùng hạ cánh xuống ta bằng một đường bay ngắn, có lúc trùng kinh độ Emily Dickinson, có lúc đồng hành vĩ độ La-thy-song. Nhưng cuối cùng vẫn là đường bay Nguyễn Đức Tùng.

Thứ Bảy, 15 tháng 9, 2012

HOÀNG THỊ NGÀY XƯA, NGÀY NAY - Phanxipăng

Nguồn :   http://chimvie3.free.fr/48/phanxipn_HoangThiXuaNay.htm
           
Bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị của thi sĩ Phạm Thiên Thư  được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành bài hát cùng nhan đề vào năm 1971,  được nhiều ca sĩ lần lượt thể hiện, tạo sức lan toả sâu rộng.  Cũng từ đó, đề cập đến nữ nhân vật trong tác phẩm Ngày xưa Hoàng Thị, vì lắm lý do, có những ngộ nhận đã xảy ra khá nực cười

   
                   Thi sĩ Phạm Thiên Thư. Ảnh: Phanxipăng

THƠ BAY BẰNG CÁNH NHẠC

Phạm Thiên Thư có họ tên Phạm Kim Long, chào đời năm Canh Thìn 1940 tại Hải Phòng trong một gia đình Đông y mà cha gốc Thái Bình, mẹ gốc Bắc Ninh. Giai đoạn 1943 - 1951, Phạm Thiên Thư sống ở Hải Dương, rồi theo gia đình vào Nam, cư ngụ tại Sài Gòn từ năm 1954. Lớp đệ tam (tương đương lớp 10 hiện thời), Phạm Thiên Thư học trường Trung học tư thục Văn Lang ở khu Tân Định, quận 1, chung lớp với một nữ sinh gốc Hải Dương là Hoàng Thị Ngọ tuổi Nhâm Ngọ 1942. Phạm Thiên Thư kể:
- Hoàng Thị Ngọ dáng người thanh mảnh, tóc thả ngang vai. Xếp hàng vào lớp, nàng đứng đầu hàng nữ, tôi đứng cuối hàng nam. Vào lớp, nàng ngồi bàn đầu, tôi ngồi bàn cuối. Ngọ học giỏi, còn tôi thì giỏi... đánh lộn. Thế mà tôi yêu nàng. Yêu đơn phương. Nhà tôi ở đường Trần Khát Chân. Nhà Ngọ ở đường Trần Quang Khải. Mỗi lần tan trường, nàng ôm cặp đi bộ về nhà, tôi cứ lẽo đẽo theo sau.
Phạm Thiên Thư thi đỗ tú tài bán phần (1) rồi trở thành sinh viên phân khoa Phật học thuộc Viện Đại học Vạn Hạnh (2). Từ năm 1964, Phạm Thiên Thư trở thành tu sĩ Phật giáo với pháp hiệu Thích Tuệ Không, trải qua các chùa Kỳ Quang (3), Từ Vân (4), Vạn Thọ (5). Mặc dầu ăn chay và khoác nâu sồng, những mỗi lần đi về khu Tân Định, Phạm Thiên Thư lại bâng khuâng luyến nhớ mối tình đơn phương thuở học trò. Xúc cảm, Phạm Thiên Thư sáng tác bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị, âu yếm gọi rõ tên nàng trong khung cảnh mây đỏ, cây đỏ, hoa đỏ, bụi đỏ:

Em tan trường về                                                          
Cuối đường mây đỏ                               
Anh tìm theo Ngọ                               
Dáng lau lách buồn                               
(...)                              
Mười năm rồi Ngọ                              
Tình cờ qua đây                              
Cây xưa vẫn gầy                              
Phơi nghiêng dáng đỏ

Chủ Nhật, 12 tháng 8, 2012

MẸ CỦA CHÚNG TA LÀ MỘT NGÀY - Nguyễn Đức Tùng

     

     



         MẸ CỦA CHÚNG TA LÀ MỘT NGÀY

                                                                   Nguyễn Đức Tùng

           Mẹ của chúng ta là một ngày

           Khi về nhà buổi trưa nóng nực
           Anh nằm lăn ra ngủ một giấc
           Trên tấm phản bóng như gương

           Như một người đã làm xong bổn phận
           Không nghe cột kèo kêu răng rắc
           Mối mọt thời gian

           Cái còn lại của một ngày
           Không phải là tro bụi
           Tỉnh dậy, mặt trời sắp lặn
           Ánh sáng gỡ xong tấm mạng che mặt
           Ra khỏi tâm hồn anh

           Ngoài hiên con ong bay rì rào rì rào
           Đó là một ngày
           Anh có thể làm bất cứ điều gì

           Đi thăm mối tình đầu
           Gõ cửa phòng chị anh và hỏi
           Đôi giày của em đâu?

           Đó là ngày anh gặp lại
           Kẻ thù xưa trong ngõ hẻm
           Kẻ cướp đi của anh: nhà cửa, bạn bè, mẹ cha, tuổi trẻ
           Một tên cướp đã già, lưng cong, má hóp, mắt mờ
           Đi bán ve chai, rao khản giọng
           Anh chửi thề một chặp

           Rồi phá lên cười
           Rồi lại khóc
           Rồi quay mặt đi
           Rồi lại cười
                                           
           Đó là một ngày
           Anh mở toang các cánh cửa của dòng sông
           Quét sạch mạng nhện trên mặt hồ sen hồng

           Nằm ngửa trước sân đình
           Mơ màng nhớ người con gái
           Hôn anh đánh chụt một cái
           Năm 13 tuổi
                                          
           Đó là ngày
           Anh đứng
           Ngắm một người tòng teng miệng vực
           Trên đầu: con cọp, dưới chân: hang núi
           Hai con chuột : trắng, đen

           Sắp cắn đứt dây leo. Một ngày nước giếng trong leo lẻo
           Anh về đầu làng gặp một cây đa
           Thấy “con chim phượng hoàng bay qua hòn núi bạc
           Con cá ngư ông móng nác ngoài khơi”

           Trong quán hớt tóc có cây đàn ghi-ta
           Và cuối xóm: một nàng thiếu nữ
           Đó là một ngày
           Anh đã làm xong bổn phận

           Khi về nhà
           Anh đi thẳng xuống bếp

           Như mẹ anh vẫn còn ở đó

           Anh đi thẳng tới cái chết
           Hỏi thăm tin tức của người thân

           Như chưa bao giờ có cuộc chiến tranh
                                         Nguyễn Đức Tùng

Thứ Hai, 30 tháng 7, 2012

NGUYỄN QUANG THIỀU: TRỞ VỀ MÁI NHÀ XƯA - Nguyễn Đức Tùng

                                    
       

  Làm thế nào để biết một nhà thơ đang nói thật?
  Người đi, người đi, người đi. Vừa bước vừa vấp

Tác giả cho phép người đọc đến gần, nhìn thấy những nhược điểm của mình.
Trong văn chương, có hai cách nói thật. Một là thành thật, tức là tự bộc lộ trước người khác. Hai là tuyên bố về sự thật, kể lại sự thật. Như chúng ta sẽ thấy sau đây, nhiều lần Nguyễn Quang Thiều nghiêng về phương pháp thứ nhất, đi đến cùng phương pháp ấy, ngay cả khi có vẻ như anh đang nói về một người khác. Vừa bước vừa vấp ở đâu? Trên đường. Con đường là lịch sử văn hóa, nhưng lịch sử có thể nhầm lẫn, văn hóa có thể là huyền thoại.

       Con đường
       Con đường
       Con đường
       Dắt ta về hồ nước cũ

      Phăng phắc một lá sen già               

Tuyển tập thơ Châu thổ mở đầu với bài Lễ tạ. Chỉ có lá, không hoa. Trước anh một thế hệ:

      Đường ra trận mùa này đẹp lắm
                            (Phạm Tiến Duật)

     Hồn nhiên, thẳng tắp.
     Hoặc, rất khác:

      Con đường đáo nhậm xa như nhớ
                                   (Tô Thùy Yên)

     Phân vân, mờ ảo.
     Ngược lên trước đó hai thế hệ, một người trẻ tuổi từng mơ ước:

       Ngày trở lại quê hương
       Đường hoa khô ráo lệ
                   (Quang Dũng)

Nhưng lệ vẫn chảy trên đường. Con đường là một ý tưởng, nhưng sự xuất hiện tự phát của một hình ảnh không có nguồn gốc, trong ý thức, là điểm khởi đầu của quá trình sáng tạo. Con đường dắt ta về hồ nước cũ là một hình ảnh, hơn thế nữa, trở thành một trong những đầu mối tương thông giữa bài thơ và người đọc, khơi dậy ở người đọc những đường dẫn liên kết họ với nhau, như trong khái niệm ý thức tập thể của Jung. Nguyễn Quang Thiều tạo ra hình ảnh mới, nhiều hơn là tạo ra ngôn ngữ mới. Anh tìm thấy chúng trong môi trường quen thuộc, phát hiện trở lại điều có sẵn, chưa ai nhận ra. Phương pháp của anh giản dị và, do đó, lạ thường:

   Tôi đi tìm vợ tôi
   Người đàn bà cài chiếc cúc đoan trang

Một người đàn bà đoan trang nhưng đã thất lạc? Chuyện gì xảy ra? Khi bỏ lại sự giản dị phía sau để mô tả ý tưởng mới, anh loay hoay với cách dùng chữ:

  Ta giấu một tình yêu chưa giới tính
  Sau nâu nâu vạt áo học trò

Tình yêu chưa giới tính là một chữ mới, nhưng khó lặp lại.
Cũng với ý thức rõ ràng, nhưng anh đã thành công hơn, cũng trong bài Mười Một Khúc Cảm, một trong những bài thơ hay nhất của anh:

   Tiếng người gọi hai bên thiêm thiếp cỏ
   Ta khổ đau lần thứ nhất trên đời

Sức nặng nằm ở câu thứ hai. Nhưng cái mới trong thơ Nguyễn Quang Thiều nhìn chung lộ ra ở cặp ý tưởng- hình ảnh. Khi đi với nhau, hình ảnh dễ gây chú ý; tuy thế, vẫn có một ý tưởng đơn tuyến xuyên suốt bài thơ, xâu chuỗi. Chính điều này làm cho thơ anh dễ hiểu so với nhiều nhà thơ mới khác, mặc dù anh dùng nhiều chữ, dùng kỹ thuật lập lại, làm nản lòng một số người đọc.
Tôi nghĩ rằng trong tương lai, nếu tiếp tục sáng tạo, thơ anh sẽ phải khó hiểu hơn nữa, dĩ nhiên không phải để đánh đố người đọc. Khó hiểu hay dễ hiểu không phải là đức tính của thơ. Có một sự dịch chuyển trong thơ đương thời, từ chỗ là thơ của công chúng trở thành thơ của cá nhân. Nhà thơ trước đây cần nhiều sự tán đồng của người đọc; hiện nay sự cần thiết ấy không tuyệt đối. Thơ càng riêng tư, gắn bó với một số độc giả chọn lọc, càng đánh mất các độc giả khác. Khoảng cách giữa nhà thơ và số đông ngày càng xa, và cái cầu giữa họ với nhau các nhà phê bình của chúng ta chưa bắc xong. Thơ mới bao giờ cũng có tính thách thức vì chúng chứa các bí mật. Một bài thơ cần được đọc nhiều lần, mỗi lần đem lại một ý nghĩa khác. Muốn biết, đối với bạn, bài thơ thành công hay không, cần đọc lại vài lần. Mặc dù mỗi ngày bạn đến gần hơn, nhìn sát mặt nó, trở đi trở lại như người quen, một bài thơ thành công dù mới hay cũ bao giờ cũng giữ được sự tươi mới lộng lẫy, như một người đàn bà đẹp ngay lúc giận dữ trước số phận vẫn tỏ ra duyên dáng. 

Mày xanh trăng mới in ngần. Phấn thừa hương cũ bội phần xót xa (Kiều).

*

Thiên nhiên của Nguyễn Quang Thiều vừa là chất liệu sáng tạo, là chủ đề, vừa là môi trường nuôi dưỡng quá trình sáng tạo ấy. Ngày càng trở thành một hiện thực hoảng loạn, thiên nhiên vẫn còn là nơi trú ẩn của tâm hồn giữa những vấn nạn xã hội mà nhà thơ không tìm thấy câu trả lời.

Những chiều xa quê tôi mong dòng sông dâng lên ngang trời cho tôi được thấy
Cho đôi mắt nhớ thương của tôi như hai hốc đất ven bờ, nơi những chú bống đến làm tổ được dàn dụa nước mưa sông.

Hình như so với những thế hệ trước, ngày nay tâm hồn chúng ta phức tạp hơn nhiều quá, thiên nhiên buồn hơn, vừa chật chội vừa trống trải; trong những câu thơ của anh đọc thấy nỗi chán chường, mệt mỏi, vừa chối bỏ, vừa tha thiết trở về. Ngày nay có vẻ người đọc cần phải thông cảm với nhà thơ nhiều hơn, kiên nhẫn hơn, chịu khó hơn, “miễn thứ” cho tác giả nhiều hơn, thì mới mở được cánh cửa của thơ mới. Khi đọc:

      Đêm mưa làm nhớ không gian
      Lòng run nghe lạnh nỗi hàn bao la
                                           (Huy Cận)

Khung cảnh hiện ra xa vắng, giá lạnh, tác giả cô đơn, nhưng tâm trạng ấy hoàn toàn có thể hiểu được: trời mưa, vì mưa nên mờ tối, vì mờ tối nên chật hẹp, vì chật hẹp nên làm nhớ không gian, vì nhớ không gian nên đã lạnh càng lạnh thêm vân vân. Mặc dù vắng vẻ cô đơn, cả hai, nhân vật và không gian, vẫn hiện ra như những khái niệm toàn vẹn. Nhưng:

 Đã khóc, chìm vào mê sảng, và bắt đầu nức nở
 Những chiếc lá trên đầu ta mang số phận sẵn rồi

Là một thiên nhiên tuy gần gũi, không xa cách, mà vẫn giá lạnh, là một hiện thực suy tàn mà các nhân vật của thơ anh mắc kẹt vào:

 Trong ký ức buồn bã và mãi mãi thì thầm

Nhịp điệu đẹp, máy móc, lạnh lùng. Người ta ngơ ngác: có một điều gì rất ngăn cách giữa nhà thơ và người đọc, không phải kiến thức, hiểu biết mà là ngăn cách tâm hồn. Họ khác nhau nhiều quá: nhà thơ và người đọc ngày nay có vẻ không thích nhau lắm. Lỗi của nhà thơ hay của người đọc? Cả hai, hay chẳng của ai cả. Lỗi của thời đại, của sự đảo lộn các giá trị, của các cuộc chiến tranh, của khuynh hướng phát triển bằng mọi giá, của các học thuyết, các ảo tưởng về chân lý, của sự dối trá đầy rẫy trong lịch sử chúng ta, giữa chúng ta, bên trong chúng ta. Thơ cố gắng chống lại điều ấy, sự tan rã ấy, làm cho cấu trúc tinh thần của xã hội trở nên chặt chẽ, thế giới bớt tan tác, nối kết vào nhau. Nhưng trong thơ, giải ảo tưởng, giải huyền thoại cũng có những nguy hiểm, vì thơ không thuyết minh, không đặt ra những bước chuẩn bị, lập tức phá tan các vòng đai an toàn, đặt người làm thơ và người đọc vào trạng thái bị chiếu sáng gay gắt. 
*
Có hai loại thơ không thành công: những bài thơ dở của một nhà thơ hay, như là cái bóng của những bài thơ hay của nhà thơ ấy, tuy không hay nhưng có vai trò cần thiết. Loại thứ hai là: những bài thơ dở đứng một mình, không cần thiết cho ai, vì chúng chứa các phẩm chất giả tạo. Nguyễn Quang Thiều là một trong vài nhà thơ đầu tiên chỉ ra một số tính chất căn bản, trước đó vốn là những cấm kỵ văn học, của người cùng thời quanh anh. Một cách nhiều lời:

Họ chạy trốn, không. Không kẻ nào nhìn thấy con đường thật của họ
Bởi thế họ hiện ra trên con đường khác trong cái nhìn của ảo giác đê hèn
Họ chạy trốn, không, họ chỉ nhóm lửa không giống và thì thầm không giống

Khi đạt tới sự trong sáng, gọn gàng hơn, câu thơ đầy sức mạnh:

 Lặng lẽ đi qua cầu
 Chúng ta chọn con đường đến với nỗi sợ hãi

Nỗi sợ hãi của ai? Anh thuộc về truyền thống nào? Thơ anh tách ra khỏi dòng thơ truyền thống, trở thành tiếng nói riêng biệt. Như người đi trong mơ, anh xác lập một hiện thực thứ hai của lịch sử và ngôn ngữ, của khát vọng và hoài niệm, tình yêu nam nữ và tình thương xót đối với phụ nữ, thiên nhiên như vấn đề văn hóa và thiên nhiên như vấn đề môi trường, và từ trên nền của những kết hợp ấy, anh là kẻ phê phán nghiêm khắc nhưng lặng lẽ. Giấc mơ: đó là một đời sống được xem xét kỹ về mặt nghệ thuật; hay cái mà các nhà sinh lý học sáng tạo thường gọi: bán cầu não phải hoạt động mạnh hơn trong các bước nhảy. Cách anh chọn chất liệu là một ví dụ. Các nhà thơ xưa thường chọn chất liệu: mây xưa, hạc cũ, trăng vàng, một đời sống hiền hòa, nhưng sang trọng và xa vắng. Các nhà thơ Thơ Mới gần hơn với đời sống hàng ngày, nếu có lãng mạn cũng là cái lãng mạn cụ thể. Thật ra chính phương cách sử dụng của nhà thơ đối với chất liệu mới làm nên tính đặc trưng của chúng. Chúng ta xét hai trường hợp sau đây trong cùng một bài thơ khá nổi tiếng của anh:

Một bàn tay họ bám vào đầu đòn gánh bé bỏng chơi vơi
Bàn tay kia bấu vào mây trắng


Nguyễn Quang Thiều vốn không hẳn là nhà thơ siêu thực. Anh đã chọn phương thức biểu hiện thành công vì ngôn ngữ của anh tham gia vào các hình ảnh, vận động giữa các giác quan như một hình ảnh, tức là một hình tượng. Nhưng khi anh viết tiếp:

      Sông gục mặt vào bờ đất lần đi

Thì không thành công lắm, vì ngôn ngữ biến thành phương tiện diễn đạt. Sông gục mặt không phải là một hình ảnh thuyết phục. Ẩn dụ là dùng một vật này để nói một vật khác, là sự dịch chuyển của ý nghĩa từ nơi này đến nơi khác, nhưng trong trường hợp đạt đến mức nghệ thuật, chúng không được quá xa nhau, mà phải nằm trong các mối liên kết sẵn có từ trước (pre-existing connections), trong tấm lưới của vô thức cộng đồng. Trong bài thơ này, anh không nhận ra điều ấy, và quả nhiên lập lại một lần nữa, ở đoạn gần cuối:

     Và cá thiêng lại quay mặt khóc

Và một lần nữa, khi hạ chữ ngơ ngác, có phần không thích hợp.

   Trước những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi.

Mà đây là bài thơ có khả năng trở thành bài thơ rất hay. Tôi không có ý cho rằng mỗi câu thơ của anh đều phải chứa một hình ảnh quan trọng, mỗi chữ phải là một thông điệp. Thơ cũng như người, cần vận động trong không gian rộng, thoáng, nhiều không khí hơn là giữa chiếu chăn, bàn ghế chật hẹp: nó cần rất nhiều khoảng trống hư từ.


      Bầy kiến đen đi qua bàn tiệc
      Như lang thang qua bãi chiến trường
      Đầy mảnh thịt của gia súc
      Đầy xác chết của rau thơm
      Quả ớt đỏ như lá cờ rách nát

Hiếm khi Nguyễn Quang Thiều có một ngôn ngữ hài hước, châm biếm, trong khi vẫn mượt mà, như thế. Đó là về một bữa tiệc, không khí sau bữa tiệc, chán ngán, thất vọng, phẫn nộ.  Trích từ một trong những bài thơ thành công, tiêu biểu cho phương pháp nhân cách hóa.
Anh viết dàn trải, ngôn ngữ phủ rộng khắp, hơi thơ dàn dụa mạnh mẽ. Nhưng những người có khuynh hướng viết dài có thể thừa chữ, thừa câu và tự lập lại.

Bóng đêm vẫn vây bọc chàng mỗi lúc một dày trong thị xã bé nhỏ này không ai thức cùng chàng
Chỉ có chàng đang ngồi trước một kẻ là chàng, kia những ngón tay thô, kia cặp môi dày luôn luôn nung trong lửa

Thơ trữ tình phát sinh từ cảm xúc, nhưng đôi khi anh cũng rơi vào trạng thái quá mẫn cảm:

   Con ốm đau ngồi ho bên cửa
   Những con thuyền ốm đau nằm đâu

Tập thơ Châu Thổ, sự tuyển chọn lại từ các tập trước đây của Nguyễn Quang Thiều, gồm những bài thơ về cuộc sống hàng ngày, thơ tình, thơ về những chuyến đi xa, về cây cối, mùa màng, về súc vật, về gia đình, người thân, bi ca, thơ tự do, thơ có vần. Những bài thơ thành công của anh có nhịp điệu gần với âm nhạc, như trong hầu hết các bài anh viết về cha, mẹ, con trẻ, người thân yêu, sự vận động của câu thơ dồn dập. Những bài thơ không thành công rơi vào tình trạng: ngôn ngữ nhiều hơn hình ảnh, hình ảnh nhiều hơn ý tưởng, xúc cảm không mạnh, kết thúc có thể đoán được, nhưng anh vẫn ít khi phạm lỗi cliché. Cộng đồng các nhà thơ tiếng Việt là một tập thể rời rạc chia cách, Nguyễn Quang Thiều lại thuộc dòng thơ tách rời khỏi truyền thống, vì vậy sự phát triển của riêng anh, đối với tôi, vừa có nhiều nguy nan, vừa đáng thán phục: anh gần như không dựa vào ai, không xuất phát từ ai, chỉ nối kết về mặt nghệ thuật với một vài nhà thơ cùng thời; trong tình cảnh ấy không có gì đáng ngạc nhiên là, trong một số trường hợp, thơ anh bị chê, được khen vì những lý do ngoài văn học, và thiếu một mạch phê bình dành riêng cho nó. 

*
Đọc thơ cần có cảm hứng. Cảm hứng đến từ đâu? Từ hai phía, người đọc và bài thơ. Người đọc không nhất thiết đi tìm toàn bộ các ý tưởng, tổng số hình ảnh, nhưng kẻ ấy phải mở được đường vào. Đường vào bài thơ có khi như cánh cửa, có khi là toàn bộ bài thơ xuất hiện cùng lúc, trong giây phút ấy người đọc tiếp nhận tất cả kinh nghiệm. Trường hợp Nguyễn Quang Thiều, đối với tôi, gần như bao giờ cũng là hình ảnh. Vì sự tiếp nhận ấy không đầy đủ, nên tôi muốn trở lại. Mỗi lần đọc, bài thơ của anh xuất hiện một cách khác. Tác phẩm có thể được sáng tạo nhiều lần, có thể được viết trong năm phút hay trong năm năm, điều ấy chẳng hề chi. Vì vậy mà trong văn chương, chuyện xuất khẩu thành thơ, đi bảy bước làm bảy câu thơ, chỉ có tính cách giai thoại mua vui. Điều quan trọng là mỗi lần đọc, bao giờ cũng là một lần đọc mới, ở thì hiện tại. Bởi vì thơ trữ tình được viết ở thì hiện tại.

  Cỏ đuôi chó em tết con chó nhỏ
  Ta xa nhau chó héo đuôi rồi

Hình ảnh đẹp, ý đẹp, nhưng anh lập lại ba lần một chữ khó, hơi vụng về. Thế mà tôi vẫn cứ quay lại với hai câu thơ này, vì nếu người đọc được dẫn dụ, anh ta sẽ đi ngược thời gian, tìm cách sắp xếp lại các sự kiện. Khuynh hướng của một số nhà thơ hiện nay là sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện biểu đạt cho sự làm mới, vốn là nhu cầu tất nhiên của sự phát triển. Sau khi thoát khỏi những ràng buộc chặt chẽ của các quy luật của thơ truyền thống, sau khi chính những kẻ cầm cân nảy mực cho các quy luật ấy cũng sa vào trạng thái mơ mơ hồ hồ, ngơ ngác, vì hệ quy chiếu thẩm mỹ của họ đang bị đe dọa sụp đổ, thì những người viết mới như chim sổ lồng sung sướng bay lên bầu trời tự do, nhưng họ không bay xa vì quên để ý đến vần điệu, tức là quên đập cánh thường xuyên, vốn là một thứ lao động đơn điệu và nặng nhọc, không lãng mạn chút nào.
Vần điệu trong thơ là thứ làm ổn định, làm cho các yếu tố gắn bó với nhau, các quan hệ bớt lỏng lẻo, trở nên chặt chẽ. Nhờ nén lại như thế mà không gian của bài thơ mở rộng ra. Thơ tự do dàn trải, như thơ của Nguyễn Quang Thiều và các nhà thơ mới khác, khi cởi bỏ các ràng buộc của thơ truyền thống, lập tức đối diện với thử thách mới: họ phải làm cho không gian của bài thơ rộng ra hơn nữa trên một nền đã giãn nở, một công việc khó khăn hơn so với các nhà thơ trước đây. Đôi khi họ nhận ra điều ấy; đôi khi không. Bài thơ của Nguyễn Quang Thiều thường khởi đầu bằng một ý tưởng mạnh và kết thúc bằng một hình ảnh hoặc là ngược lại, làm cho khả năng triển nở của bài thơ trở nên dễ dàng hơn. Như khi anh mở đầu:

  Tôi tựa lưng vào bức tường xám mốc

Và kết thúc:

 Tôi sẽ ngủ với họ thế nào

Có những trường hợp khác, anh cố gắng đem nhiều thứ vào một câu. Vì vậy mà câu cuối bài thơ Cánh đồng:

 Xa tít một lưỡi cày mơ tên gọi vì sao

Là một hình ảnh phức, hoặc hai hình ảnh, mà mối liên kết giữa chúng lỏng lẻo, hoặc là một cấu trúc rối. Thơ có thể mờ nhưng không nên rối. Câu kết thúc một bài thơ thường là điểm “hạ cánh” quan trọng, từ đó nhìn ngược lại có thể thấy toàn bộ quá trình sáng tạo của bài thơ. Thơ Nguyễn Quang Thiều có những đoạn kết gây cảm giác thỏa mãn, mở ra, dồi dào ý tứ như sau đây, nhưng chúng không xuất hiện đều đặn.

   Hình như có một bậc cửa cho tôi bò qua
   Nơi ấy sóng trăng đang vật vã.
*
Thơ Việt Nam mấy mươi năm qua có phải là người làm chứng của thời đại mình? Tôi nghĩ là không. Hầu hết các nhà thơ của chúng ta im lặng hoặc chọn im lặng trong tác phẩm trước những sự kiện xã hội, khi ngôn ngữ bị giày vò, thoái hóa. Khi đọc thơ Nguyễn Quang Thiều, như trong tập Châu Thổ, tôi có một thứ ảo giác, ngày một dâng lên, như sương khói. Các ý nghĩa của bài thơ khi mờ khi tỏ, các phần khác nhau của bài thơ có liên hệ mật thiết nhưng không kém bất ngờ, đó là mối liên hệ giữa ý thức và vô thức, giữa bán cầu não trái và bán cầu não phải, chỗ lằn ranh của quầng ánh sáng một ngọn đèn trong đêm tối. Đọc thơ anh là sự thách thức, là cảm giác sợ hãi trước số phận con người, là cảm giác đứng trước thương tổn. Anh là trường hợp điển hình của cố gắng vượt ra khỏi đám đông, bằng ý thức, trong khi chính anh tự nguyện hoặc bắt buộc phải bước vào đám đông ấy, sống với họ mỗi ngày, vật vã, trả giá, để giữ được bản sắc, một thứ bản sắc vừa nhân bản vừa hoang dại.

   Đó là những từ vựng mệt mỏi và đổ đốn
   Nhưng có một buổi trưa
   Tôi phải chung sống
   Như chúng ta từng chung sống với ruồi

Những vấn đề cấp thiết đương thời không thể hiện trực tiếp trong thơ Nguyễn Quang Thiều, mặc dù vậy phía sau mỗi bài thơ của anh, bất kỳ anh viết về đề tài nào, với chất liệu gì, đều trang trải một nỗi buồn nhân thế rất chín, rất dày, những suy tư gần chạm tới triết lý về con người.

Những con chim xanh của tâm hồn nàng đập cánh không ngưng nghỉ
Tìm lối thoát ra khỏi thân xác của nàng

Đó là ngôn ngữ đẹp, vô tội, ngôn ngữ thân phận. Tuy thế, thỉnh thoảng đối với tôi, như trong một ngày đầy tin dữ, chúng vẫn toát ra vẻ đẹp phù phiếm. Bạn có thể hỏi: nhưng liệu thơ có phục vụ cho một mục đích cụ thể nào không? Chính trị, luân lý, giáo dục, gợi ý cho các giải pháp xã hội hay môi trường? Các nhà thơ của chúng ta hiện nay có nhiệm vụ gì? Hay họ đã được người đọc cởi bỏ khỏi tất cả các nghĩa vụ rồi?

  Và lúc đó có người đứng dậy
  Đi vào bóng tối
  quay nhìn lại
  Thấy mình mẩy chúng ta cắm đầy giáo
  Phóng tới từ một đấu trường khác


Kết thúc mạnh mẽ, nhưng nội tâm hóa, phi xã hội. Các nhân vật “chúng ta” của bài thơ có trích đoạn trên đây không lên tiếng phản đối nhưng từ chối tham dự vào trò chơi của lịch sử, từ chối làm kẻ đồng phạm: anh đang tiến dần tới một nền văn chương của nạn nhân.

Họ chạy trốn không nguyền rủa, không tuyên bố, không hoảng hốt, chỉ đau đớn, chỉ có chuẩn bị.

Tôi cho rằng trong khi việc đòi hỏi nhà thơ phải phục vụ xã hội là một đòi hỏi hoặc ngây thơ hoặc quá độc đoán, người đọc vẫn có quyền chờ ở họ sự lắng nghe, chia sẻ. Các nhà thơ Canada Lorna Crozier và Patrick Lane, trong một lần đến thăm Chile, đã nghe người dân nói: “chúng tôi kể cho các bạn nghe chuyện này vì các bạn là người nhạy cảm, vì các bạn là những nhà thơ” (“we are telling you this because you are sensitive people, because you are poets”). Có phải Nguyễn Quang Thiều đã chọn cách trả lời riêng cho anh về vấn đề này: như một nạn nhân, trở về với sự cứu rỗi?

Hỡi Chúa Trời, xin cho con được quỳ dưới chân người, xin cho con được cất lời cầu nguyện

Ngôn ngữ thơ ca chỉ biểu hiện một trong ba thứ sau đây: sự đau khổ của con người, đối thoại giữa những người đau khổ ấy, và sự thăng hoa. Tập thơ Châu thổ có nhiều yếu tố của khuynh hướng siêu nghiệm (transcendence), trong bối cảnh thiên nhiên thơ mộng và sụp đổ, vượt lên từ  chứng nghiệm cá nhân. Dịu dàng đối với cuộc đời, ít hài hước, ít châm biếm, thơ Nguyễn Quang Thiều buồn rầu nhưng không nghiêm khắc. Ở trên tôi có nói rằng, Nguyễn Quang Thiều đã chọn phương pháp thứ nhất để nói lên sự thật. Thật ra, nhiều hơn một lần, anh đã viết khác. Khi đó, anh gây ngạc nhiên ở người đọc, làm họ bực bội, như chúng ta có thể đọc rải rác đây đó.

Những người đàn bà vác dậm đi thành một hàng dọc về phía bên phải sát mép đại lộ
Người họ bọc kín bởi những lớp vải nâu và đen
Chỉ đôi tay, đôi chân và đôi mắt lộ ra

Anh đã giản lược hóa các nhân vật, tối thiểu hóa các xúc cảm thành hình ảnh của thị giác (khác với hình ảnh trong tâm trí), lột hết phần hồn của họ, đi rất xa về hướng hậu hiện đại, vốn không phải là trung tâm của thơ anh, ít nhất là cho đến nay. Anh là người kháng cự lặng lẽ.

*
Nhiệm vụ quan trọng nhất của một bài thơ là chỉ ra cho người đọc cách đọc nó.
Nhưng người đọc đi tìm điều gì trong thơ? Họ đi tìm sự bù đắp cho một tâm hồn thiếu sót, lời cắt nghĩa cho một vết thương, sự toàn hảo cho thế giới không toàn hảo. Họ đi tìm lại giấc mơ trong đêm bị xóa dưới mặt trời, sự tò mò hăm hở đối với vạn vật, lời an ủi trước khi nhắm mắt, bàn tay đặt lên cuộc tình lầm lỗi, sự phẫn nộ trước nghịch cảnh, tội ác. Khi những nhu cầu ấy của người đọc không được thỏa mãn, họ bỏ sách xuống, bài thơ thất bại. Họ hứa quay trở lại, nhưng bạn tin tôi đi, never, jamais. Người ta than phiền: thơ mới ngày càng khó hiểu và tối tăm.
Khó hiểu và tối tăm là hai tính chất khác nhau.
Khó hiểu là đặc trưng của thơ mới, tối tăm là đặc trưng của thơ dở. Khi một vật đập vào mắt ta, đánh thức sự lãnh đạm của người quan sát, sẽ làm bật lên sự chú ý. Sự chú ý có thể xảy ra trong chốc lát rồi biến mất, có thể kéo dài nhiều ngày, hay biến mất rồi trở lại. Khi nào sự chú ý này trở thành nỗi ám ảnh, dù đó là hình ảnh, âm thanh hay ý tưởng, lúc đó sự chú ý mới chuyển thành trạng thái khác là cảm xúc có tập trung.
Hình như cho đến nay dư luận báo chí đối với thơ Nguyễn Quang Thiều chỉ chú ý đến sự khác lạ của cách dùng chữ của anh, ví dụ:

 - Cầu thang gỗ đến giờ đau răng, rên rỉ
 - Những chân trời gập khúc xuống mùa đông
 - Những sư tử, những báo gấm, những hổ của rừng mang dáng vẻ kỳ vĩ đang mục ruỗng từ bên trong

Nhưng sự khác lạ này, ngay khi hoàn toàn thích hợp, như vẫn thường xảy ra, không phải là tính chất cốt tủy của sự làm mới. Đó là sự khác lạ của các thủ thuật tu từ, vốn có tính chất bài tập, và sẽ dễ dàng bị vượt qua bởi các nhà thơ đến sau và dĩ nhiên, trước hết bởi chính anh.  Nhưng khi sự làm mới nằm sâu hơn, như trong bài thơ dưới đây, nó sẽ gây rung động như câu chuyện được bồi hồi nhớ lại vào buổi sáng tinh sương:

 Thức dậy từ cơn mơ, cả cúc áo cũng không cài hết
 Cả tóc không kịp buộc, không kịp cả dặn dò
 Tôi và em chạy về từ hai miền xa lạ
 Qua những cánh đồng, cỏ bần bật run lên

Một giấc mơ trong một giấc mơ.
Có một yêu cầu chung đối với các nhà thơ làm mới đương thời: khả năng tự làm trống rỗng mình.
Không còn căn cước nữa.
Nguyễn Quang Thiều không viết nhiều thơ tình, nhưng hình ảnh người phụ nữ bàng bạc trong thơ anh. Anh mô tả họ với tình yêu nồng nàn và bao giờ cũng với lòng thương xót, nghĩ ngợi, với một niềm hối hận mà tôi không rõ nguyên cớ từ đâu.

    Đêm nay anh không biết em ở đâu
    Nhưng chúng ta cùng chung một cơn mưa

Đó là nghệ thuật của tính riêng tư. Khi anh nói về phụ nữ, ngôn từ tìm được sự giản dị, bộc lộ trước hết trong nhịp điệu. Thơ Nguyễn Quang Thiều có nhịp dồn dập vì anh có nhiều gánh nặng: gánh nặng của đời sống đô thị, gánh nặng của giấc mơ đầy tình yêu con người, và gánh nặng của quá khứ, của những người khác. Tôi có cảm giác anh không hoàn toàn miễn nhiễm trước một thứ gì như là sự ngưng trệ quanh anh, như vũng lầy của đời sống, nhưng anh, như một người thừa bản sắc tốt đẹp, mãi mãi, mỗi ngày, tìm cách vượt lên khỏi chúng. Gánh nặng quá khứ trong anh là gì? Đó là sự chia sẻ các truyền thống, là sự kế thừa các giá trị ngắn hạn và dài hạn do hoàn cảnh riêng. Từ rất sớm, anh đã bước đi trên mảnh đất của văn hóa đương thời, nhưng mặt khác thỉnh thoảng vẫn quấn chân vào đám cỏ dại ven đường, vốn là thứ cũng thân thuộc. Nếu phải chọn hình ảnh tập trung nhất, nỗi ám ảnh thường xuyên, tôi sẽ chọn cánh đồng và người phụ nữ.
Thiên nhiên và phụ nữ. Đó là hai mối nương tựa chính yếu của thơ anh, bao giờ cũng gắn bó mật thiết với ký ức nông thôn, với bụi bặm kinh thành, với mối thương yêu mà trời ban cho để anh sống qua những thời kỳ đen tối của trí tuệ cộng đồng. Có một quan hệ, một đường dẫn truyền về hình tượng cắm sẵn trong vùng sáng tạo, khiến chúng ta quay đi rồi trở lại, có thể đi thật xa mà không lạc đường, khi nào mối quan hệ ấy trở thành chất liệu, chúng ta thấy ngôn ngữ và ý nghĩa được sắp xếp đẹp đẽ.

 Da thịt nàng là buổi hừng đông, tóc nàng lấp lánh
 Ta không thể tin đêm qua nàng thiếp ngủ bên ta

Nguyễn Quang Thiều viết nhiều về sự khổ đau, sợ hãi, bóng tối, nhưng thơ của anh cũng đầy hạnh nguyện và tình yêu đời. Bằng cách di chuyển mau lẹ, băng qua những lối tắt, trong những bài đạt tới, anh có thể tìm kiếm lại dấu vết con đường chúng ta đi qua. Nếu đọc lại thơ anh, đọc chậm, thong thả, đặt mình vào tâm trạng người viết, tự cho phép mình can dự vào hành động của các nhân vật, chúng ta có khả năng nhìn thấy cánh cửa, những cánh cửa khác nhau, trong một bài thơ của anh. Khác với nhiều người hiểu, đọc thơ không phải là một hành vi thụ động, đọc là quá trình vận động, một hành vi có chủ ý. Thơ mới ngày nay cần nhiều sự can dự của người đọc, vì bài thơ bao giờ cũng là gợi ý, là dàn bài, là sự phóng chiếu của các cuộc đối thoại lẽ ra đã có thể xảy ra, điều mà anh muốn nói và điều mà anh thực sự đang nói, điều mà chúng ta đọc và điều mà chúng ta thực sự muốn đọc, bởi vì bài thơ không đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng, như nơi ngã ba đường người bộ hành hoang mang lựa chọn. Người đọc phải đi qua ngã ba ấy nhiều lần, lắng nghe, nhìn ngắm, tìm kiếm, đặt câu hỏi với văn hóa đã mất, nương tựa vào bài thơ để thăm dò sự im lặng, phá vỡ sự im lặng, quay về với im lặng, tìm đường trở lại mái nhà xưa, đôi khi bằng cách dấn bước về phía tương lai.
                                                                                                                                                 Nguyễn Đức Tùng
                                                                  Vancouver, Phục sinh 2012

Thứ Hai, 4 tháng 6, 2012

BỜ XANH CỦA HUẾ

Ba mươi năm xa Huế, về lại, Huế vẫn còn xanh. Trong lúc nhiều nơi khác thì có nơi đã đổi trắng hay hóa vàng. Đổi trắng, vì quá nhiều tòa nhà vôi gạch mới mọc. Và, vàng đi vì khuynh hướng đô thị hóa “diêm dúa” nửa vời.

“Sân khấu” Ngọ Môn

Con sông xanh mát thường trôi chảy êm đềm là linh hồn của thành phố. Với Huế, sông Hương không phải chỉ là linh hồn mà còn là thể phách tinh anh của thành phố. Núi ấy phải có sông ấy. Sông ấy phải có núi ấy và bầu trời Xuân xanh, Hạ trắng, Thu vàng, Đông tím... mới hội đủ đường nét tạo hình cho một tác phẩm tâm ảnh trong lòng người đi. Phía Nam và phía Bắc, Đà Nẵng và Quảng Trị là hai thành phố đẹp và có thể thay thành phố cũ ra thành phố mới như tái sinh. Đà Nẵng một ngày nào đó có thể đẹp như Hồng Kông. Quảng Trị - Đông Hà có thể đẹp như phố mới. Nhưng Huế thì khó mà có được một sự thay hình đổi dạng tương tự vì Huế đã định hình thành một biểu tượng: Huế tự làm nên Huế mất rồi! Một cặp phạm trù mâu thuẫn và sinh khắc đã làm nên xứ Huế. Ngay điều kiện thiên nhiên và thời tiết cay nghiệt “Tháng tám nắng nám trái bưởi. Giêng hai (lạnh tới mức) cắn tay không ra máu” cũng đã vẽ nên một cảm nhận sinh khắc ngoài tầm thay đổi. Rồi tới cảnh một trú xứ Thần kinh miên mật đến thế mà Huế thơ, Huế mộng; nhưng Huế vẫn “tộng bộng” hai đầu. “Tộng bộng” là một biểu tượng cởi mở thông thoáng, một phong thái tiếp nhận cái mới không cần điều kiện. Nhưng có ai quên được rằng, những người Huế khai phá tiền phong thời chúa Nguyễn Hoàng tiến về Nam là đoàn lữ khách “tới nơi đây đất nước lạ lùng; con chim tê kêu cũng sợ, con cá nớ vẫy vùng cũng run”. Phải chăng vì thế mà cái “đẹp… dễ sợ!”thì chỉ Huế mới có. Huế đã mang số mệnh hy sinh chính mình cho nghĩa lớn của Huyền Trân. Tên gọi cụt ngủn: “Huế, Sịa, Nong, Truồi, Chuồn, Cồn, Hương, Bồ, Dinh, Trò, Độn…” đã không làm cho tình Huế ngắn đi và đất Huế hẹp lại mà cảm xúc mãi dài ra quá tầm một đời người ngắn ngủi. Có một lối sống, lối nghĩ, lối hành xử theo một phong cách riêng gọi là “văn hoá Huế”. Cũng như có một lối gọi tên, phát âm và diễn đạt riêng gọi là “tiếng Huế” hay phương ngữ Huế. Huế toàn ròn không thể thay bằng một Huế khác như người Việt “Huế xa”… mô đó; không thể thay bằng một người Tây hay người Mỹ trở về! Bà mẹ quê lưng còng tóc bạc, lụm khụm hái mớ rau tập tàng luộc cho con ăn không thể thay bằng một hình ảnh “Amy” mô đó… mặc váy đầm, tóc mi-nhon, dắt chó chạy loăng quăng trên đường Thượng Tứ được.
Ba tuần về với Huế vào cuối tháng Ba, khi những cơn lạnh và cơn mưa bất chợt cuối mùa làm Huế vừa già đi, vừa trẻ lại. Tôi đã bắt gặp và cảm nhận từ trong chính mình một chút co ro của tuổi già và một chút tươi mát của tuổi trẻ khi cỡi xe máy Honda chạy loanh quanh khắp các ngã đường quanh Huế và từ làng lên Huế; từ Huế về làng.
Hơn nửa đời sống với Huế, tôi thường tự hào là mình đã thuộc lòng... từng cái ổ gà trên đường qua Đập Đá, đường về An Cựu, đường xuống Bãi Dâu, đường tới  Bao Vinh, đường vô Mang Cá, đường ra An Hòa… hay nhớ rõ màu rêu từng mùa trên những bức tường vôi gạch cổ thành. Thế mà nay về lại, vẫn bị lạc đường hỏi lối loanh quanh. Nghĩa là Huế có mở rộng. Huế thêm nhiều con đường và phố xá lên theo.
Mỗi khi nói đến một thành phố mới, một con đường mới mọc lên thường đồng nghĩa với một khung cảnh thiên nhiên vừa bị biến cải qua bàn tay tái tạo của con người. Tội nhất là những dòng sông rầu đời tuyệt vọng bởi những công trình khai thác không tiếc thương “tình sông nghĩa núi“ của kỹ thuật lạnh lùng. Hình như càng ngày, văn minh nhân loại càng gắn bó tha thiết với những dòng sông. Như châu Mỹ trẻ trung hơn châu Âu nên những con sông không bị biến thành những lạch nước quặn mình làm kiểng cho những công trình xây dựng lâu đài. Những dòng trường giang  như Mississippi, American, Colorado ở Mỹ, Wheaton ở Canada vẫn còn là những bờ xanh lồng bóng nước như hôm nay. Trong khi đó, những con sông nổi tiếng một thời ở châu Âu, vốn đã lên lão từ thời Trung Cổ, như sông Seine ở Paris, sông Thames ở Luân Đôn, sông Brisbane ở Úc,  sông Danube ở Đức… đã bị những cơn lũ đô thị hóa biến thành những dòng kênh quặn mình giữa hai bờ thành lũy bê tông và cao ốc. Hy vọng mãi sau nầy rằng, mai tê cô Thắm con nhà Huế có về làng, dẫu có lỡ để cho “hương đồng cỏ nội bay đi ít nhiều” thì cũng vẫn còn thấp thoáng đâu đó đôi nét mặn mà của cô gái chân quê.
Dẫu có đi khắp năm đồng bảy đội, tuổi già trở về Huế, vẫn thấy Huế đẹp với  những bờ xanh: Bờ sông, bờ suối, bờ ao, bờ hồ, bờ rào, bờ cỏ… Dòng sông Hương xa tít tắp có thể nhìn thấy trong tầm mắt từ đồi Vọng Cảnh, qua chùa Linh Mụ, chạy dọc theo thành phố, rẽ về Vỹ Dạ, qua ngã Ba Sình trước khi xuôi về biển. Hai bên bờ sông vẫn còn xanh mướt. Dòng nước xanh, lác đác lục bình, đôi cụm lau lách hoang dã vẫn còn thấy nhau và những con đò xuôi ngược. Sông An Cựu, Sông Bồ, sông Đào, hồ Ngự… vẫn còn bờ xanh với mùa Xuân và dây leo đong đưa với mùa Hạ. Nếu Huế mất những bờ xanh, làng tôi mất những bờ cây dại dọc sông Bồ thân ái có lẽ tôi sẽ mất đi những hoài niệm một thời nhưng vẫn còn kéo dài và khắng khít của ngày xưa và bây giờ đã trên 60 năm. Và, trong tâm thức của những người trên 60 tuổi như tôi, đã sống nửa đời ở Huế và một nửa ở quê người, khái niệm về quê hương không còn thuần nhất như xưa. Bạn bè sống một đời ở Huế có lẽ khó tình chia sẻ nỗi niềm phân chia trong lòng người có hai bến bờ để tới. Tôi có Quê Mẹ, đó là quê hương nguồn cội đã sinh tôi ra và nuôi tôi khôn lớn một thời. Nhưng tôi cũng có Quê Người, đó là một quê hương khác đã dang tay cưu mang đời tôi và gia đình – giữa lúc cơn bão tâm lý, tri thức và cuộc sống quay cuồng tới đỉnh điểm – mà không cần điều kiện hay sự đổi chác nào. Trong một trạng thái tâm lý “dùng dằng nửa ở nửa về” như thế, những bờ xanh của Huế đã dang tay đón tôi lại. Sự cuốn hút của thiên nhiên đầy tâm cảm là một sáng tạo tuyệt vời của tình yêu cuộc sống. 
Mùa Xuân năm nay, chúng tôi muốn làm một cuộc du lịch “tùy duyên”. Tùy duyên trong du lịch có nghĩa lấy vui làm chính. Còn đi đâu cũng được, miễn sao tìm được thú vị và an lạc trên mỗi bước đi.  Lần nầy “tùy duyên về Huế”, trong lứa tuổi về chiều ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp, chúng tôi thường đùa rằng, may thì gặp duyên lành, không may thì gặp duyên chướng. Về Huế tháng Ba. Nắng chưa rát da rát thịt và thời tiết đã qua những tháng mưa Đông… héo úa tâm hồn! Thời điểm nầy Huế có Festival, mùa Phật Đản và vụ gặt Đông Xuân. Festival với những lễ hội rộn ràng đầy màu sắc, Phật Đản với những thuyền hoa rực rỡ trên sông Hương và mùa gặt năm nay nghe bà con nói được mùa với rau cỏ xanh hơn năm ngoái. Nếu Huế không có những bờ xanh của sông núi, ruộng đồng thì lễ hội, thuyền hoa, lúa mùa lấy đâu làm chỗ dựa thiên nhiên cho con người núp bóng.
Chúng tôi cũng có mặt giữa những người Huế gần, Huế xa và khách xem từ bốn phương tám hướng trong buổi mở đầu Huế Festival năm 2012. Có thể nói mà không sợ bị cho là đại ngôn rằng, “sân khấu Ngọ Môn” đêm khai hội là một kiệt tác đẹp hiếm thấy có tầm cỡ toàn cầu, vì đây là dấu tích của một công trình kiến trúc đế vương non hai thế kỷ còn đọng lại trước mắt nhân gian. Tôi chỉ thấy cảnh phế tích đấu trường Colosseum thời đế quốc La Mã ở Ý là nơi có thế gây cảm giác mạnh cho du khách vì lịch sử bi hùng vủa nó. Nhưng Colosseum chưa hề tổ chức… “festival” nên Huế vẫn là nơi xứng đáng cho những lễ hội mang tính văn hóa và truyền thống gây được cảm tình yêu mến cho du khách khó tính vì đã quá từng trãi với bao ngõ ngách địa cầu thời hiện đại.
Lần này tôi về Huế, được gặp lại những người quen, bạn bè ở Huế và từ Pháp, Mỹ, Úc, Canada cùng từ nhiều nơi trong nước “ghé Huế mùa Xuân cho khỏi nóng”. Từ những năm trước, nhiều anh chị em gốc Huế sống xa quê tự động ngồi lại với nhau và góp tay nhau thành một nhóm sinh hoạt từ thiện và văn nghệ, văn hóa Huế gọi là “Huế Xa”. Anh chị em chỉ có một tấm lòng chung là: “Huế Xa mà không xa Huế.”
Chúng tôi ở lại Huế lâu hơn vì được sống với bà con, bạn bè trong màu xanh mùa Xuân tươi mát của Huế. Buổi trưa đi trên Cầu Mới, nhìn về phía cầu Trường Tiền và cầu Bạch Hổ còn ẩn hiện trong màn sương mỏng và nắng mơ phai đầy ẩn dấu như người con gái Huế khi chưa biết “phía bên tê”. Chao ơi là đẹp!

Bờ xanh sông Hương

Nấn ná ở với Huế lâu lắm cũng chỉ tới ba tuần. Tôi thích về làng ra sau vườn hái rau tươi luộc chấm tương ngon như ngày còn mẹ. Lên thành phố, Huế vẫn còn dáng vẻ phố cổ của một thời; có nghĩa là chưa bị biến dạng sau những bóng dáng “đại gia” nửa quê, nửa tỉnh, nửa thị, nửa thành. Huế bây chừ cũng có những nơi cho bạn bè hẹn nhau đầy hương vị như Vỹ Dạ Xưa, Không Gian Xưa, Ven Đồi, Tân Hương Sen, Hoàng Trúc, cà phê Cây Đa Thành Nội, cà phê Thiên Đường.
Về lại Mỹ, nghe tin Huế “nóng như chảo bắp rang” mà tội Huế quá. Bên nầy trời Cali nhớ Huế, chúng tôi bỗng nhớ bạn bè, làng xóm, người thân quen. Chỉ nhớ lại lớp học nhỏ bé của chúng tôi ở trường Hàm Nghi Huế thôi cũng đủ hình ảnh để tính đời dâu biển. Gặp lại thầy xưa, bạn cũ tưởng như mới chiều hôm trước thôi mà hóa ra đã gần một đời đi qua.

Bốn thế hệ trường Hàm Nghi Huế: Thất1 - Tứ 1 (1959-63)
 (Hình chụp trước cổng Di Luân Đường - Quốc Tử Giám;
 trường Hàm Nghi cũ. Tháng 4-2012)

Nhớ nhất là tiếng vọng thời gian “mới đó” thảng thốt mà ngậm ngùi của Huế: Mới đó mà đã 53 năm. Mới đó mà thằng Phúc, thằng Ni, thằng Phụ, thằng Lân, thằng Hòa... trong lớp đã ra đi hơn bốn chục năm rồi.Mới đó mà cả lớp đều đã lên hàng ông nội, ông ngoại. Mới đó mà thằng Viêm đã có chắt! Mới đó mà thế hệ những đứa học trò nhỏ chúng tôi ngày nào nay đã thành những “cụ” già gặp nhau với ít nhiều dáng vẻ lụm khụm và những nụ cười vui buồn vui bay tóc trắng. Và,mới đó mà những nàng dâu Hàm Nghi hương sắc một thời bây chừ hoá ra… đẹp lão. Các cụ chỉ còn biết cố níu lại thời gian bằng tiếng xưng hô “thằng, con, mi, tau…”, của những ngày xưa thân ái cho đã cái miệng (không răng) mà thôi.
Xa Huế, người ta có thể quên những mảnh sống vui buồn, những ngày sướng khổ trong một chặng đời nào đò. Nhưng mấy ai quên được những con đường quê hương đã từng quặn mình giữa bao tuồng ảo hóa của thời gian và cuộc thế trùng trùng dâu biển. Càng về già, tâm hồn lại trở thành chơn chất và thanh thản hơn để còn thương nhớ những bờ xanh của Huế. Mong Huế còn mãi những bờ xanh. Màu xanh sớm mai của Huế chính là nền đậm cho Màu tím Huế buổi chiều. Và màu sắc Huế cũng là nhịp cầu thế hệ nối tuổi già vàng phai và tuổi trẻ xanh mướt mượt mà; nối kẻ ra đi và người ở lại – cho dẫu là Huế Xa mà không xa Huế.

                                                                   Huế - California, tháng Tư đầu mùa Hạ 2012
                                                                                             Trần Kiêm Đoàn