Nữ
sĩ Hoàng Hương Trang
VĨNH
BIỆT NỮ SĨ HOÀNG HƯƠNG TRANG
Nguyễn Phú Yên
Tin từ Long Xuyên cho hay Nữ sĩ Hoàng Hương Trang đã từ
giã cõi đời vào lúc 6g sáng hôm qua 15-4 và được hỏa táng vào lúc 16g chiều hôm
nay 16-4-2020, hưởng thọ 84 tuổi. Chị bị ung thư gan giai đoạn cuối nhưng bản
thân chị không hay biết. Chỉ mấy hôm trước chị chỉ cho biết người rất mệt sau
khi đi khám bệnh ở Bệnh viện Long Xuyên trở về. Tro cốt sẽ được đưa về Huế và
chôn tại ngôi mộ trên một ngọn đồi do chị tự lập từ năm 2011.
Nữ sĩ Hoàng Hương Trang tên thật Hoàng Thị Diệm
Phương, sinh năm 1938 (khai lùi tuổi), quê quán làng Vân Thê, huyện Hương Thủy,
Thừa Thiên-Huế, là nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ, nổi tiếng ở Miền Nam trước
và sau năm 1975. Chị xuất bản tập thơ “Khép đôi mi nhỏ” vào năm 1956 năm chị 18
tuổi. Thật ra chị làm thơ từ năm 12 tuổi; có lần nhà thơ Hồ Đình Phương đem thơ
của chị đăng báo Đời Mới, Thẩm Mỹ ở Sài Gòn khiến nhiều người tưởng chị là cô
gái tuổi đôi mươi.
Tác phẩm:
Khép
đôi mi nhỏ (1956), Linh hồn cỏ biếc (1965), Bến tâm hồn (1966), Thơ - Đông
Phương (1967), Hợp tấu (1967), Mười hướng sao (1970), Túy ca (1972). Chị đăng
thơ trên nhiều tờ báo như Phổ Thông, Bách Khoa, Văn, Hoa Tình Thương, Tiểu Thuyết
Tuần San, Phụ Nữ Mới, Bút Hoa, Gió Nam, Quật Khởi… Chị có nhiều bạn bè và học
trò, từng gặp gỡ cụ Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, NS Lê Thương, NS Tuấn Khanh và Phạm
Duy, nhà thơ Nguyễn Đình Thi… có tên trong Thi nhân Việt Nam thế hệ 1954-1973
(2 tập của Nguyễn Tấn Long, Phan Canh, NXB Sống Mới, Sài Gòn, 1974).
Năm 1972, khi chị in tập thơ “Túy ca”, nhà thơ Vũ Hoàng Chương - tác giả tập “Thơ say” - với tấm lòng liên tài đã làm
bài thơ Cảm đề Túy ca tặng chị:
“Bài
ca Tận túy” đi hoang
Biết
đâu Hoàng lại gặp Hoàng chiều nay
Vẽ
nên độc dược mà say
Hóa
công chưa dễ khéo bày đặt hơn
Gió
trăm cơn bụi ngàn cơn
Một
cơn say đủ sạch trơn thế tình
Nguyện
trường túy bất nguyện tinh
Say
ai? Mình chỉ say mình đó thôi
Túy-ca
bè đã thả rồi
Túy-hương
xưa hãy cùng trôi ngược về.
Sau 1975, chị là hội viên Hội Nhà văn VN, in chung
trên 30 tuyển tập thơ văn trong và ngoài nước. Chị sinh hoạt ở CLB Văn nghệ sĩ
Gia Định, nơi qui tụ nhiều tên tuổi của Sài Gòn như các nhà thơ, nhạc sĩ, nghệ
sĩ Tường Linh, Tô Kiều Ngân, Song Nguyên, Vũ Hối, Sông Trà, Châu Kỳ, Trầm Tử
Thiêng, Trúc Phương, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Thanh Sơn, Hàn Châu, Mặc Thế
Nhân, Túy Hoa, Túy Phượng, Ngọc Huệ, Mai Khanh, Mai Trâm, Đoàn Yên Linh, Mai
Hiên, Trần Thiết Hùng (em trai của Vân Sơn - một trong ba thành viên ban AVT,
đã nhảy sông tự tử tại cầu Thị Nghè sau 1975)
...
Năm 1976, chị được gia đình nhà thơ Vũ Hoàng Chương
tin cậy gửi gắm để lưu giữ 12 bài thơ cuối cùng của nhà thơ, sau này đã được in
ở hải ngoại. Năm 2006, nhân ngày giỗ lần thứ 30 của nhà thơ Vũ Hoàng Chương,
Hoàng Hương Trang cũng làm bài thơ Chiều say nhớ Hoàng thương tiếc nhà thơ tài
danh này:
“Biết
đâu Hoàng lại gặp Hoàng chiều nay”
Mới
vừa dăm chén đã say
Trong
men chếnh choáng nhớ ngày năm xưa
Bút
gươm chém lệch đường thơ
Mực
đau giấy ảo, kịch hờ thương Mây
Trả
gươm cho gió nghiêng vai
Trả
thơ cho mộng, trả ngày cho đêm
Kiều
Thu, hề! Đẫm gót sen
Mười
hai tháng sáu trả men cho tình
Trời
một phương, đất một mình
Cảm
thông nhân thế cái tình phù du
Tài
hoa hệ lụy sa mù
Chén
vui, hề! Chén buồn xưa hiện về
Ơi
Hoàng, nửa chén si mê
Ơi
Hoàng, nửa chén vụng về trao tay
Rượu
đây, hề! Ta cứ say
“Biết
đâu Hoàng lại chiều nay gặp Hoàng”.
(Sài Gòn,
10-10-2006)
Chị là con nuôi của kịch tác gia Vi Huyền Đắc
(1899-1976). Cụ là Phó chủ tịch Trung tâm Văn bút Việt Nam, người từng được giải
thưởng của Viện Hàn lâm Nice, Pháp năm 1936 với vở Eternels Regrets (Trường hận)
và giải thưởng của Tự Lực Văn Đoàn năm 1938 với vở Kim Tiền. Sau năm 1975 cụ trở
về Hà Nội được một thời gian thì cụ buồn chán, lặng lẽ tuyệt thực và qua đời
vào tháng 8-1976. Đám tang do nhà văn Nguyễn Tuân đứng ra tổ chức và nhà thơ Thế
Lữ đọc điếu văn. Trước khi về Bắc, cụ để lại căn nhà cho chị Hoàng Hương Trang.
Thời bao cấp khó khăn, chị bán hai phần ba căn nhà, phần còn lại chị ở có một
mình. Chị thường bảo “chơi văn, ăn vẽ”, bởi nguồn sống của chị là từ các tranh
vẽ bán được trong mấy chục năm ở Sài Gòn. Trong bài thơ Tám mươi dư gửi cho La
Thụy, chị nhìn lại đời mình:
Thơ
hơn chục cuốn, vạn bài
Văn
ngoài dăm quyển, ngàn trang
Họa
sáu mươi niên, dư vài trăm bức
Nhạc
điểm xuyết mấy khúc ca
Ngâm
nga gần bảy chục năm, Tao Đàn nổi tiếng
Hát
hò chưa ca sĩ, bạn bè vẫn vỗ tay khen…
Bạn
bè khắp năm châu bốn biển, tính đến vạn kẻ thân quen
Học
trò trong nước ngoài nước, đếm quá ngàn, tình thân chí
thiết
Giao
du cuối đất cùng trời, từ Âu sang Á…
Hoàng Hương Trang
(Sài Gòn, 2017)
Xin giới thiệu bài thơ về Huế của chị:
HUẾ TÌNH ĐẦU
Ai
xa Huế mà không nhớ Huế
Nhớ
chuông chùa Diệu Đế, nhớ Văn Lâu
Nhớ
Trường Tiền da diết sáu nhịp cầu
Nhớ
Kim Long, nhớ bến đò Thừa Phủ.
Nhớ
dốc Nam Giao, nhớ bờ sông Bến Ngự
Nhớ
Hàng Bè, Thượng Tứ, nhớ Bao Vinh
Nhớ
sông Hương chan chứa thiết tha tình
Nhớ
thông reo đỉnh Ngự Bình gió mát.
Nhớ
Tịnh Tâm, hồ sen bát ngát
Nhớ
đò Cồn, An Cựu, Chợ Dinh
Nhớ
con đường Vỹ Dạ bóng cây xanh
Nhớ
Gia Hội, Đông Ba, Hàng Me, Đập Đá.
Nhớ
Ngự Viên, nhớ Nội Thành, Mang Cá...
Huế
của ta ơi, biết nhớ mấy cho vừa!
Ai
xa Huế mà không thương Huế
Thương
mẹ già lặn lội mùa Đông
Thương
em thơ đi học mưa dầm
Thương
chị, thương anh mùa hè cháy nắng
Thương
bữa cơm nghèo, nồi canh mướp đắng
Thương
dĩa mắm cà, con cá thệ kho khô...
Huế
của ta ơi, thương biết chừng mô!
Ai
xa Huế mà không mơ về Huế
Dạo
bước trên cầu áo trắng tung bay
Vành
nón nghiêng nghiêng che mái tóc mây
Ánh
mắt trong veo dòng Hương gợn sóng
Đêm
trăng hè trời cao lồng lộng
Chiều
thu êm tím ngát cả không gian
Tiếng
hò trên sông ngơ ngẩn bàng hoàng
Hò
ơ hò... chiều chiều trước bến...
Mơ
sớm mai chèo đò qua cồn Hến
Trái
bắp tươi non, nấu chén chè thơm
Dĩa
bánh bèo tôm chấy hồng ươm
Đợi
cơm hến, bánh canh, bánh ướt...
Nhớ
biết mấy, những món quà quê hương
không
gì thay thế được
Dải
đất quê nghèo mà mặn nồng yêu thương
Ai
đã từng uống nước sông Hương
Ai
đã từng hưởng ngọn gió chiều đỉnh Ngự
Ai
đã từng bước đi trên những con đường tình tứ
Ai
đã thả hồn trên những chiếc võng âm thanh
Ai
đã đắm say tình Huế quê mình
Dẫu
xa xôi mà không mơ về Huế
Huế
tình đầu thơm ngát, Huế yêu ơi!
Hoàng
Hương Trang
Sau đây là hai bài thơ cuối cùng của chị:
CỔ THỤ VÀ HOA
Có
gốc cổ thụ già cằn cỗi
Thở
từng hơi nhè nhẹ cuối cùng
Bỗng
một hôm nắng sớm tưng bừng
Cơn
gió ngọt ngào mang bông hoa tới.
Bông
hoa bảy sắc màu tươi rói
Nở
chói lòa như ánh cầu vồng
Hoa
đến bên cổ thụ khô cằn
Tỏa
hương thơm dịu dàng như mật.
Hoa
đẹp hơn ngàn bông hoa có thật
Hoa
thì thầm ẩn ngữ tình yêu
Hoa
hẹn hò chờ đợi kiếp sau
Bao
say đắm quên mình là cổ thụ.
Và
quên hết thời gian, quá khứ…
Như
chơi vơi trong cõi Thiên Đường
Ở
bên hoa tươi đẹp lạ thường
Gốc
cổ thụ nở bừng cùng hoa thắm.
Cổ
thụ giờ đây không còn ảm đạm
Ôm
trọn đóa hoa thơm ngát trăm năm
Lời
hẹn thề từ cõi xa xăm
Nay
đã gặp bông hoa tiền kiếp.
Hoàng Hương Trang
(2017)
NAM MÔ
Cho
tôi niệm tiếng Nam Mô
Nguyện
thương, nguyện nhớ
Nguyện
cho cuộc tình
Cho
tôi niệm tiếng cầu kinh
Đừng
hờn, đừng giận
Người
mình dấu yêu.
Trái
tim tôi, tiếng kinh chiều
Nam
Mô ký ức
Đã
yêu nghìn đời
Trái
tim tôi gửi về nơi
Tiếng
Nam Mô
Với
ngọt bùi từ bi.
Hoàng Hương Trang
(2019)
Nguyễn Phú Yên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét