Tác giả bài viết Ngã Du Tử
ĐỌC
“MEKONG, DÒNG SÔNG NGHẼN MẠCH” CỦA NHÀ VĂN BÁC SĨ NGÔ THẾ VINH
Ngã Du Tử
“Mekong,
dòng sông nghẽn mạch” của nhà văn, Bs Ngô Thế Vinh là cuốn tiểu
thuyết ký sự khá kỳ công, ly kỳ và hấp dẫn mà tác giả đã tận mắt đến chứng kiến
như chuyến du khảo bắt đầu từ cuộc thâm nhập con đập Mạn Loan (Manwan) thuộc
Vân Nam, Trung Quốc cho đến kỳ cùng của con sông Hậu, Việt Nam, cũng như vùng
Tràm chim, Tam Nông thuộc Đồng Tháp Mười khu sinh thái của các loài dã hạc quý
còn lại của miền Nam, sự gặp gỡ giáo sư Võ Tòng Xuân ở đại học An Giang, dến về
Bến Tre và thay lời kết Cho một dòng sông, cùng với nhiều suy nghĩ của các bậc
thức giả viết về nó. Với sự trang trãi nổi lòng mình từ sự yêu mến con sông Mê
Kong nói riêng và tổ quốc Việt Nam nói chung nhằm cảnh tĩnh và khuyến cáo với
dân tộc và quốc gia Việt Nam hãy làm điều gì có thể trước khi sự cuồng nộ của
thiên nhiên nhận chìm cả đồng bằng phì nhiêu châu thổ sông Cửu Long, với tham vọng
quá dữ dội của chính quyền Bắc Kinh, chắn dòng chính Mekong làm các con đập bậc
thềm trên thượng nguồn, họ chỉ muốn làm lợi cho chính quốc gia Trung Cọng bất
chấp các dân tộc khác tan hoang và điêu linh, nhất là những dân tộc cuối nguồn
như Cam Bốt và Việt Nam chúng ta.
Câu chuyện ông kể lại suốt hành trình khá mạch lạc và
lý thú bởi nhiều chúng cứ và dữ liệu trung thực từ thực tế chuyến đi, rất may
là ông cũng là nhà nhiếp ảnh nên đến đâu là có hình ảnh minh họa đến đó làm cuốn
hút hơn cho người đọc, rất may là tôi đọc vài lần thấy rằng đây là quyển sách
quý và dữ liệu rất đáng để độc giả Việt Nam biết càng nhiều càng tốt hầu sau nầy
nếu may mắn được góp sức vào sự cải thiện dòng sông Mêkong to lớn đã đi qua 6
quốc gia: Trung Hoa, Miến Điện, Thái, Lào, Cambodia và Việt Nam. Nó nuôi sống
cho hơn 60 triệu dân của các nước của dòng Mekong đi qua, đặc biệt hơn là hệ
sinh thái cùng hàng ngàn loài cá nước ngọt khá phong phú.
Hay là loài cá Pla Beuk, tương truyền hàng năm và khoảng
tháng 4, đoàn cá Pla Beuk ngược dòng từ thung lũng Luang Prabang phía bắc Vạn
Tượng, Lào về hồ Nhĩ Hải, Đại Lý hơn 2000 km để đẻ trứng, sinh sản. Nếu như ở Đại
Tây dương có loài cá Hồi rất đặc biệt ngược dòng hơn 20.000 cây số rất khổ sở
nhiều hiểm nguy tìm về cội nguồn nơi sinh ra để đẻ trứng duy trì nòi giống và kết
thúc vòng đời, thì loài cá Pla Beuk ở MêKong cũng vậy. Thế giới sinh vật trong
thiên nhiên biết bao điều kỳ thú.
Dĩ nhiên trong cuộc di chuyển trở về của loài cá Pla
Beuk, ngư dân hai bên bờ sông bội thu về thực phẩm, “ngư dân Lào, Thái cho rằng
cá Pla Beuk là linh ngư, đem đến vận may cho ngư dân, nó có thể dài 3m nặng đến
300kg là loài cá nước ngọt đặc biệt chỉ có ở sông Mêkong”. (Trang 64)
Từ mười năm nay, khi con đập Mạn loan(Manwan) chắn
dòng 1993, người ta không còn thấy loài cá đặc biệt Pla Beuk/ Pangas Sianodon nầy
lên hồ Nhĩ Hải sinh sản!!!
“Tưởng
cũng nên nhắc lại ở đây một sự kiện đáng ghi nhớ và gây nhiều tranh cãi là vào
giữa Năm 1993 xảy ra một hiện tượng được coi là bất thường: Mực nước con Sông
Mê-Kông phía hạ lưu đột ngột hạ thấp xuống mà không vào mùa khô, chỉ lúc đó người
ta mới được biết lfa Trung Quốc đã xây xong con đập Mạn Loan (Manwan) và đó là
thời điểm bắt đầu lấy nước từ con Sông Mê-Kông vào hồ chứa. Và họ cũng chẳng
thèm thông báo gì cho các quốc gia dưới nguồn. Chỉ riêng với con đập Mạn Loan
mà đã giữ tới 20% nguồn nước trên dòng chính, khúc Sông Mê-Kông chảy qua Vân
Nam. Sau biến cố đó, phải nói là càng ngày càng có mối lo âu về ảnh hưởng của
chuỗi đập bậc thềm Vân Nam. Mối quan tâm đó càng ngày càng gia tăng do nguyên
nhân thiếu hẳn nguồn thông tin cung cấp bởi Trung Quốc.” (Ct.Ly)
Cũng trong chuyến đi thực tế ấy, tình cờ nhưng may mắn
ông gặp Giáo sư tiến sĩ Mika, người Nhật đang làm việc ở đại học Anh tại trung
tâm nghiên cứu Đông Nam Á (Centerfor South East Asian studies) dù không phải là
chuyên môn của tác giả Ngô Thế Vinh nhưng ông cũng trao đổi về các sắc dân thiểu
số, đặc biệt là các sắc dân thiểu số người Thượng ở Tây nguyên, Việt Nam. Hy vọng
sau nầy ông cùng Ts Mika ấy mở rộng đề tài nầy.
Trong chuyến hành trình bằng thuyền xuôi dòng từ cảng
Tư Mao (Simao) xuống tận bắc Thái Lan và Lào, ông mới thấy hết sự tàn phá dòng
chảy của dòng sông MêKong mà Trung Hoa là thủ phạm:
“Vào
tháng 4/2001 Trung quốc đã ký một thỏa ước về thủy vận trên sông Mekong nhưng chỉ
với 3 quốc gia Miến, Thái và Lào với kế hoạch vét lòng sông cả dùng cốt mìn, chất
nổ phá tung những khối đá trên các đoạn ghềnh thác, các đảo nhỏ trên sông để
khai thông mở rộng dòng sông cho tàu lớn với trọng tải 500 đến 700 tấn để có thể
di chuyển từ cảng Tư Mao, Vân Nam xuống Chiang Khong, Chiang Sean Thái Lan tận
đến thủ đô Vạn Tượng, Lào. Trong khi Cam bốt và Việt Nam là 2 quốc gia trực tiếp
chịu ảnh hưởng của kế hoạch ấy lại gạt ra ngoài. Hậu quả ra sao chẳng ai lượng giá được, nhưng
chắc chắn nhịp độ thiên nhiên điều hòa của dòng chảy sẽ rối loạn, ảnh hưởng dây
chuyền lên hệ sinh thái sông Mê kong”.
Đọc đến đây tôi mới hiểu rằng chính quyền Trung Quốc họ
thích đàm phán song phương, bởi họ dễ bề khuynh đảo được những “ông chủ” quốc gia nhỏ bé đó để làm lợi
cho chính họ bất chấp những ràng buộc của quốc tế, và tàn hại mội trường sinh
thái thiên nhiên khi chuyện đã rồi thì chỉ có trời mới cứu vãn được mà thôi.
Đường lên Tư Mao (Simao), cách thị trấn Cảnh Hồng 165
Km về hướng đông bắc được coi là cửa ngõ xuống phương nam ta, cũng có con đập Cảnh
Hồng khởi công năm 1998.
Hồ Điền Trì/ Dian Côn Minh và Con sông Hồng thì thế
nào? chính phủ Việt Nam có lẽ chưa biết được những gì về kế hoạch “Giải quyết môi sinh” của họ theo lối “Ném bùn sang ao” của Côn Minh nói riêng
và Trung Quốc nói chung. Tác giả viết:
“Những
chuỗi hồ lớn nhỏ chạy dài đến tận Hà Khẩu (Hekou) biên giới phía bắc Việt Nam,
một địa hình đặc biệt của cao nguyên Vân Nam. Hồ Điền Trì/ Dian là biển hồ lớn
nhất Vân Nam…Hồ có diện tích 300 Km2, phía tây là núi đồi, phía đông hồ địa
hình bằng phẳng, nguyên là khu chài lưới thịnh vượng , nhưng vì ô nhiễm từ các
khu kỹ nghệ bờ đông nam nên không còn nhiều cá và thực sự không còn một nền ngư
nghiệp, không sao xử lý được khối nước quá ô nhiễm trong Hồ lớn Điền Trì” (nghĩa là khu công nghiệp xả nước vô tội vạ
xuống hồ) và “một kế hoạch táo bạo của chính quyền Vân Nam: dự trù chi phí 2 tỷ
Yuan để khai thông một đường dẫn ra sông Hồng chảy qua Việt Nam rồi đỗ ra biển
Đông, sau đó thay thế bằng nước sông Dương Tử dẫn vào hồ”.
Tuy chưa có kiểm chứng được bao nhiêu phần trăm kế hoạch
đầy sáng tạo và độc ác của các “công
trình sư Đại Hán” ấy. Làm sao ta có thể kiểm chứng khi các kế hoạch luôn bị
“bưng bít, dấu nhẹm” bởi chính quyền
Trung Quốc.
Bản
đồ trên ghi những địa điểm nguồn sông Mékong không được công nhận: Lungmung
(1894), Rupsa (1994), Jifu (1999) và nguổn được công nhận bởi Viện Khoa Học TQ:
Lasagongma (1994, 1999).
Và điều gì sẽ xảy ra, phải chăng cả dòng sông Hồng sẽ
ô nhiễm trầm trọng và cư dân Việt Nam lãnh đủ cả, nguy hiểm và tàn độc như thế
nhưng biết làm sao hơn?!
Một nỗi uất nghẹn tràn dâng trong cả cộng đồng dân tộc
Việt chứ nào phải chỉ có người dân dọc sông Hồng, con sông lớn nhất phía Bắc tưới
tiêu cho cả đồng bằng sông Hồng trù phú nuôi sống cả hang triệu người dân miền
Bắc. Trung Quốc muốn xẻ vụn, xâm thực từng mảnh với dân ta, liệu rằng điều nầy
chính phủ và dân tộc Việt có thấy?
Lào
và giấc mơ Kuwait
Có lẽ ở Đông Nam Á, Lào là đất nước hiền lành, con
sông Mekong ngang qua quốc gia nầy tạo nên sự trù phú cho cư dân và nuôi sống
hàng triệu ngư dân dọc con sông, nhưng bây giờ ra sao?
Thực ra từ năm 1975 Lào đã có 3 đập thủy điện với quy
mô nhỏ, nhằm phục vụ cho các thành phố. “Nam Ngum 30MW, thuộc tỉnh Vạn Tượng.
Nam Dong 1MW thuộc tỉnh Luang Prabang và Sélabam 2 MW thuộc Champassak.
Chính phủ Lào đã vay thêm ngoại tệ để tăng công suất
cho các nhà máy có sẳn đồng thời xây thêm 2 con đập. Cho tới năm 2000, điện lực
công cộng Lào lên tổng sản lượng 270 MW”.
Như vậy là sản lượng điện của Lào ngoài cho nội quốc
còn xuất khẩu sang các quốc gia lân cận như Việt , Thái, giấc mơ Kuwait đã thực
hiện, nhưng dòng sông Mẹ (Mae Nam Khong) kiệt sức và hầu như phía dưới các con
đập làm ra điện kia tan hoang, nước cạn dòng, cá tôm cũng cạn kiệt, bờ bãi trống
huơ, ngư dân thưa thớt thỉnh thoảng cả ngày chỉ lưới được tí cá độ nhật, bởi trên
họ cả một số con đập bậc thềm của Trung Quốc đã chặn dòng chính.
Hãy nghe tác giả viết về hồ chứa đập Nam Ngum của Lào:
“Hồ
chứa đập Nam Ngum trải rộng trên một diện tích 250km2 (lớn hơn 1/3 đảo quốc
Singapore) như một thắng cảnh thiên nhiên có vẻ đẹp hung vĩ với cảnh trí núi
non và hàng trăm hòn đảo lớn nhỏ, tuy không còn thú lớn vẫn là nơi trú ngụ của
khỉ, chút, các loài chim và rắn”
Có điều thú vị là chuyến đi ấy ông tìm đến ngôi mộ của
nhà thám hiểm người Pháp là Henri Mouhot (1826-1861) với các thông tin còn rất
rõ ràng qua 3 lần trùng tu với cảm xúc “khó mà tưởng tượng nổi cách đây 140 năm
trong cảnh hoang sơ của rừng rậm, cùng dòng sông chảy xiết, nổi hiu quạnh và
can trường của H. Mouhot lớn đến dường nào”
Và điều đặc biệt nhất của xứ sở hiền hòa nầy có cánh đồng
chum còn khá nhiều bí ẩn thách thức các nhà khảo cổ Lào và thế giới. “Cánh đồng Chum (Tiếng Lào: ທົ່ງໄຫຫິນ [tʰōŋ hǎj hǐn]) là một cảnh quan khảo
cổ cự thạch ở Lào. Nó bao gồm hàng ngàn chum đá nằm rải rác dọc theo thung lũng
và cánh đồng thấp của đồng bằng trung tâm thuộc Cao nguyên Xiengkhuang. Hầu hết
chúng nằm thành từng cụm với số lượng từ một cho đến vài trăm cái chum
Cánh
đồng chum là một khu vực văn hóa lịch sử gần thi xã Phonsavan, thuộc tỉnh
Xiengkhuang của Lào” (2)
Một
thoáng Thailand
Cũng trong ký sự nầy, ông ghé thăm Thái Lan, đã cho
chúng ta nhiều thông tin rất thú vị nếu không đọc chắc gì biết, ví dụ trong thời
chiến tranh qua các thời kỳ một số người Việt ta sang ấy tỵ nạn rồi định cư, những
thăng trầm của họ đến nay đã qua 3, 4 thế hệ là dân Thái chính thức nhưng vẫn
còn nhiều vấn đề với dân Thái bản xứ và những sinh hoạt của dân Việt trên đất
Thái. Cũng nhân lưu lại đất Thái ít ngày
ông biết khá rõ việc nhà thám hiểm Pháp Henri Mouhot từ Thái sang Lào và được
vua Lào trân trọng tiếp đón, ông viết:
“Phải
hơn 7 tháng trời lặn lội từ kinh đô Bangkok đến kinh dô Luang Prabang là một thị
trấn quyến rũ như Genève và tại đây Mouhot được vua Tiantha đón tiếp trọng hậu”…
“và chỉ hơn 3 tháng sau ông bị cơn sốt rét rừng/forest fever – có lẽ cơn sốt
rét ác tính và chết ở cái tuổi 35, mộ ông đuộc chon bên bờ song Nam Khan, một
phụ lưu của con sông Mekong, con chó Tin Tin của ông hằng ngày bên mộ chủ tru
lên”
những tiếng thống thiết.
Dịp nầy ông cũng đến được hang Phật bản Pak Ou, nằm êm
đềm ở tả ngạn sông Mekong, Pak Ou caves là tên chỉ chung 2 hang Phật Tam Ting
(Hang dưới) và Tam Phum (Hang trên), ông cũng chẳng ngờ được rằng nơi đây dung
chứa đến 4000 tượng Phật cổ từ hơn 300 năm trước, được biết nơi đây cũng nổi tiếng
linh thiêng người dân thường đến dâng lời cầu nguyện.
Hay là cũng từ nơi đây ông được thấy tận mắt và trao đổi
với ngư dân cũng như chụp được con cá
Pla Beuk, tuy con cá chỉ 45kg và cá Irrawady. Cả 2 loại cá nầy đứng trước sự
tuyệt chủng vì môi trường ô nhiễm trầm trong và khai thác cạn kiệt.
Có một điều kinh ngạc nữa mà rất ít người biết, nhân
chuyến đi của nhà văn Ngô Thế Vinh đã tiếp xúc “Làng tiền sử Ban Chiang”.
Ban Chiang (tiếng Thái: บ้านเชียง,
phát âm tiếng Thái: [bâːn tɕʰīa̯ŋ]) là một địa điểm khảo cổ học nổi tiếng nằm ở
huyện Nong Han, tỉnh Udon Thani, Thái Lan. Nó được UNESCO công nhận là Di sản
thế giới từ năm 1992(1) mà theo tác giả có lẽ văn minh cổ xưa nhất là thời kỳ đồ
đồng của con sông Mekong bị vùi lấp, được coi là sự phát hiện quan trọng của
vùng Đông Nam Á từ sau thế chiến II, tác giả viết :
“Như
một giai thoại cách đây 44 năm, năm 1966 một sinh viên khảo cổ học người Mỹ khi
đi vào cánh đồng của khu làng Ban Chiang anh đã bị vấp ngã trên một gốc cây
bông gạo kapok và chẳng thể ngờ rằng anh đã ngã vào một kho tàng cổ sử.
Quanh
anh là vô số mảnh sành nhô ra từ mặt đất. Anh thu thập những mảnh vỡ ấy gửi
về Bankok, sau đó đại học Pannsylvania để nghiên cứu”...
Khá trễ sau 4 năm, các nhà khoa học khảo cổ Mỹ + Thái
mới khai quật có hệ thống. Chỉ trong 2 năm họ đã đào được 18 tấn di chỉ gồm các
dụng cụ bằng đồng, bình chậu sứ, cả đồ dệt và hài cốt trong ngôi mộ cổ. Nghiên
cứu cho biết đây là ngôi mộ cổ hơn 5000 năm, và có lẽ thú vị nhất là các vật dụng
bằng đồng được đúc cách đây hơn 3600 năm TCN- nghĩa là sớm hơn các đồ đồng cổ
xưa nhất của Trung Đông 500 năm. Phát hiện nầy đã phủ nhận luận cứ cho rằng kỹ
thuật luyện đồng khởi đầu từ lưu vực song Tigris và Euphrates năm 3000 TCN,
cũng phủ nhận luôn rằng giả thiết đồ đồng từ Trung Quốc du nhập về phương Nam
(Đồ đồng cổ nhất của Trung Hoa chỉ 2000 nămTCN)
Như vậy có thể nói rằng kỹ thuật luyện đồng từ Đông
Nam Á du nhập sang Trung Hoa thay vì ngược lại. Đó chưa kể với những trang sức
bằng đồng rất mỹ thuật phản ảnh một xã hội thái hòa có văn hóa cao chứ không
man di như Trung Hoa nhận định”.
Như vậy, trên dòng sông Mekong có 2 quốc gia: Lào,
Thái Lan nhỏ hẹp nhưng có hai điều bí ẩn là: Cánh đồng Chum và làng Ban Chiang,
không hiểu thế nào lại đồng loạt biến mất và nhân loại hầu như quên lãng.
Cambodia,
Tonlé Sap và Biển Hồ
Xứ sở chùa Tháp với quần thể kiến trúc Ankor khá đồ sộ
nhưng đã suy tàn từ rất xưa xa thế kỷ XIII, tác giả đến xứ sở nầy chỉ là ghé
tham quan đúng nghĩa, chứ không có mục đích lớn hơn, cái quan tâm của ông là
con sông Mekong, biển Hồ. Tuy vậy đứng trước Ankor Wat buổi bình minh ông cũng
cảm nhận được điều mình nhận ra từ kiến trúc nầy. Ông viết:
“Bước
lên những bậc thang, đi vào khu đền đài với hàng ngàn thước đá chạm trổ như pho
sử đá cảnh trần gian, vươn lên là các tượng đá hùng vĩ gây cảm giác choáng ngợp
để tưởng như thời gian ngưng lại cho phút trầm tư phù du về một triều đại, kiếp
người”
Từ Siem Reap bằng thuyền máy về hướng nam ra đến khu
Chong Khnea còn gọi khu làng nổi của người Việt, lòng chùng xuống với biết bao
nổi thống khổ của người Việt nghèo, cuộc sống quanh quẩn với Biển Hồ làm sao
cho thế hệ phía sau khá hơn, không thể khá được bởi hoàn cảnh con đông kiếm cái
ăn đã rã rời và họ sống như công dân hạng hai ở xứ sở ấy.
Biển
Hồ: mùa khô 2.500km2 (trái), mùa mưa 12.000km2 (phải). Biển Hồ nay thoi thóp,
không còn co giãn với hai mùa mưa nắng và đang cạn dần (nguồn: Tom Fawthrop)
Ông viết:
“Nguồn
tài nguyên phong phú của Biển Hồ đã thu hút các sắc dân từ các nơi đỗ tới, và
hình thành khu làng nổi trên Biển Hồ, nếp sống ấy hầu như không thay đổi hàng
trăm năm nay…”
Tới khu làng nổi là tới với vẻ đẹp của một sinh cảnh
thiên nhiên đồng lầy còn hoang dã, những khu làng nổi cũng di chuyển theo mùa
tùy theo nước lên xuống. Bình minh hay hoàng hôn trên khu làng nổi là một trong
những cảnh quan tuyệt đẹp của Biển Hồ”.
Tới
Tràm chim vùng sinh thái Prek Toal:
Thuyền máy băng băng qua Biển Hồ hướng về nam để tới
Prek Toal, thuộc tỉnh Battambang lại là khu làng nổi khác của người Khmer, nơi
có văn phòng Sở Bảo tồn Biển Hồ (Environmental Reseach Station for Tonlé Sap
Biosphere Resever), diện tích Biển Hồ tùy theo mùa nước, khi hồ cạn có thể
2500km2, nhưng mùa mưa nước dâng, nước chảy ngược từ Tonlé Sap vào Biển Hồ, có
thể nước dâng cao từ 8-10 met, diện tích có thể lên 12.500km2 tức gấp 5 lần so
với mùa khô, thực phẩm và cá ở đây rất phong phú quyến rũ nhiều loài chim về
sinh sống, vì vậy sắc lệnh Hoàng gia tháng 11/1993 qui định Biển Hồ Tonlé Sap
là khu Đa dạng bảo tồn (Multiple Use Protected Areas), tới tháng 10/1997 Biển Hồ
mới được Unesco công nhận là Khu bảo tồn sinh thái (Biosphere Reserve).
“Để
quản lý, Khu bảo tồn sinh thái được chia làm 3 khu: Khu trung tâm (Core), Khu Đệm
(Buffer zones). Mục đích lâu dài là bảo vệ các khu trung tâm để tương lai trở
thành công viên Quốc gia.
Ba
khu trung tâm bảo tồn là:
1. Prek Toal rộng 31.282 ha
2. Boeng Tole Chhmar hay Moat Kla rồng.969 ha
3. Stung Sen 6.586 ha.
Khu
sinh thái nầy hơn 190 chủng loại sống dưới nước, riêng loài cá có hơn 200 loài,
khảo sát sơ khởi còn cho biết hàng trăm loài chim, trong đó có 12 loài được cho
là quý hiếm đối với thế giới.
Rừng
lũ Biển Hồ còn là sinh cảnh các loài bò sát, loài có vú, 23 loài rắn, 13 loại
rùa, 1 loài cá sấu, vượn, khỉ, mèo, báo, rái cá v.v…”
Cũng may tác giả điện thoại trước cho người quản lý
khu bảo tồn tên là Meas nên anh hỗ trợ phương tiện trong công việc quan sát,
ghi lại hình ảnh cũng như trao đổi khá trôi chảy, nhà văn còn biết thêm “thời gian lý tưởng để thăm Tràm chim từ
tháng giêng đến tháng ba, cũng là mùa nước cạn (cùng thời gian với Tràm chim
Tam Nông, Đồng Tháp Mười). Được biết những loài chim cần được bảo vệ như: Spot
Billed Pelican/ Chim Bồ nông mỏ đốm, Oriental Darter/ Bồ nông cổ rằn Đông
Phương, Lesser Adjutant, Black Necked Stork/ Sếu cổ đen, Painted Stork/ Sếu vằn,
Milky Stork/ Sếu sữa, Glossy Ibis/ Cò quăm, Grey-headed Fish Eagle/ Chim ưng đầu
xám”…
Khi lưu lại ở Cam Bốt nhà văn có dịp thăm vài bệnh viện
và có gặp bác sĩ Beat Richner gốc Thụy Sĩ là giám đốc 3 bệnh viện: - Bệnh viện
Jayavaman, bệnh viện Katha Bopha 1 và 2. Beat Richner cũng là nhạc sĩ cello, một
khuôn mặt huyền thoại của Cambodia dù bận rộn về công việc chuyên môn ông cũng
không quên mỗi tối thứ bảy bao giờ cũng có buổi hòa nhạc Back ở bệnh viện để
gây quỹ nhưng vào cửa tự do khá thú vị, người nghe nhạc phần đông là du khách
ngoại quốc tới thăm khu đền Ankor.
Về
Miền tây Nam bộ và Đại học An Giang
Khi trở về Tây nam bộ ông phải gặp bằng được giáo sư
Võ Tòng Xuân đang là “viện trưởng viện đại
học An Giang”, một đại học non trẻ mới “thôi
nôi” bởi đã trao đổi với nhau nhiều lần (kỳ thinh) nhưng chưa tận mặt mày bởi
ông biết rõ vị giáo sư nầy có cả tấm lòng “khai
dân trí, chấn dân khí” cho sinh viên trường và “hậu dân sinh” với người dân đồng bằng miền tây nầy khi ông theo
dõi dòng chảy của con sông Mekong từ khi Trung Quốc bắt đầu chắn dòng cho con đập
Mạn Loan cho đến nay, nhà văn Ngô Thế Vinh viết:
“Phải
nói rằng số lượng giảng viên của nhà trường còn rất hạn chế, với sĩ số 600 chỉ
50% có bằng thạc sĩ (Master) và tiến sĩ (Ph.D). Qua các em tôi được biết các giảng
viên trẻ của Đại học An Giang đi ngoại quốc học thêm để tăng cường chất và lượng
cho ban giảng huấn.”
Gs Xuân còn còn những dự án dỡ dang khác:
1. Tìm gène giống lúa mới chịu được nước lợ do
Cửu Long cạn dòng và thêm nhiễm mặn
2. Vận động nông dân ĐBSCL áp dụng kế hoạch “3
giảm, 3 tăng” trong đó giảm thuốc trừ sâu nhiễm độc tới mức độ nguy hiểm cho
môi trường sống
3. Lập khu bảo tàng cây lúa ĐBSCL với sưu tập
các nông cụ mà tiền nhân sử dụng từ thưở khai hoang
Ngoài ra nhà văn, Bs Ngô Thế Vinh cũng quay về thăm
nhiều vùng nữa trên miền tây Nam bộ thân yêu chịu ảnh hưởng trực tiếp với sự
nghẽn mạch của dòng sông Mekong bởi các con đập bậc thềm của dòng chính mà thủ
phạm là Trung Quốc cọng với những đập thủy điện khác của Thái, Lào…, hầu như họ
chỉ thấy cái lợi trước mắt cho quốc gia họ và bất biết những quốc gia phía hạ
nguồn thế nào và hệ lụy đến nay các độc giả đã rõ.
Tiếng thở dài ngao ngán của ông với nỗ lực cá nhân
thâm nhập có thể nguy hiểm cả tính mạng, để có dữ liệu đầy đủ hầu đóng góp cho
đất nước, cũng có thể là tiếng thở dài của toàn dân tộc, không biết rồi đây
chính phủ đương thời có giải pháp nào khả dĩ giải quyết yên bình đời sống để thần
dân của miền tây Nam bộ nói riêng và cả đồng bằng Cửu Long - vựa lúa châu thổ ấy
còn tiếp tục cung cấp lương thực nuôi sống cả toàn dân tộc Việt Nam, chứ đùng
nói đến xuất cảng.
Để kết thúc bài nầy tôi trích một đoạn của Long Ân - Người
Việt (12/2001)
“Con
người phương Đông đang gặp đại nạn khoa học kỹ thuật mà con người phương Tây đã
từng thọ nạn ở đầu thế kỷ 18. Ô nhiễm chính trị, ô nhiễm nhân văn và thê thảm
nhất là ô nhiễm môi sinh…chỉ mới hôm qua, Enstein đã hốt hoảng tìm một lương
tri cho khoa học qua con đường của đạo học. Ông cho rằng “Khoa học không tôn
giáo thì què quặt, tôn giáo không khoa học thì mù lòa”
Còn nhiều điều nữa rất bổ ích và thú vị, hy vọng các độc
giả sẽ đọc được để thấy sự thật trong chừng mực đã có trong 320 trang sách: “Mekong, Dòng sông nghẽn mạch của bác sĩ”,
nhà văn Ngô Thế Vinh đã dày công cũng từ lòng yêu mến con sông và trên hết là tổ
quốc và dân tộc.
Ngã Du Tử
Sài Gòn,
2019 - 2020
….
*
Bài của Ct Ly
*
(1), (2) trong Wikipedia
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét