BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đoàn Đức. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đoàn Đức. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2022

TRÊN GIƯỜNG BỆNH NHỚ NGÀY TIỂU TƯỜNG CỦA ĐỖ TƯ NGHĨA (16/9/2022) TẠI ĐÀ LẠT - Đoàn Đức.


Vợ chồng Đức-Nhàn ghé thăm Đỗ Tư Nghĩa ngày 10/3/2021 tại Đà Lạt
 

Thân gởi Mylly con gái yêu của Nghĩa!
 
Rồi 10/3/2021 Chú Thím hẹn Bs Seiko đến thăm ba cháu.
Khi ba cháu muốn tựa đầu vào ngực chú. Chú nhớ đến các bạn đồng song với ba cháu, nên viết vài dòng kèm ảnh gởi cho họ.
 
Nghĩa ơi! Còn đâu màu cỏ úa. Con đường xưa chúng ta đi. Ngày hai buổi đến trường. Bảy năm ròng cùng lớp. Trường Nguyễn Hoàng Quảng Trị thuở thơ ngây.
 
Rồi ngày hạ hết cấp. Khi đậu xong Tú Tài toàn phần. Minh, Thắng, Nghĩa ba đứa cùng vào Đà Nẵng, ghé bãi biển Nam Ô. Bên bờ đá sóng vỗ. Chụp lại tuổi thanh xuân. Khuôn mặt ngời rạng rỡ. Một thời trai hoài bảo.
 
Rồi đến tình Văn Khoa Đại Học. Những giờ nghe giảng triết. Nghĩa, Hạnh, Minh cùng Tuấn. Bên bóng hồng Như Ngân. Nghĩ cuộc đời thơ mộng. Hiện sinh cùng hiện tại giữa cõi đời này. Đó là phút huy hoàng vô hạn. Bốn năm rồi cũng hết. Chia tay dù không nói. Lẳng lặng chỉ nhìn nhau. Trời mai đầy ước hẹn. Sá gì chút bận lòng.
 
Cánh chim bay tung cánh bạt ngàn.
Ai ngờ con chim nhỏ về đậu. Bảo Lộc khuất sương mù.
Cầm phấn vẽ cuộc đời.
Vòng đầu hay vòng cuối.
Tận cùng hay khởi điểm?
Hữu thể và hư vô.
Hãy hỏi Heidegger mà Nghĩa học.
 

Thứ Sáu, 19 tháng 8, 2022

THĂM BẠN QUA MẠNG - Hoàng Đằng

Hình dưới đây tôi vừa xin Nguyễn Văn Trị. Tôi nghe tin bạn tôi - Đoàn Đức - không khỏe đã mấy tháng nay. Nóng lòng. Tôi muốn mặt gặp mặt bạn. Nhưng đường sá xa xôi, chuyện ấy đối với tôi bất khả. Giờ thì thấy bạn qua bức ảnh cũng cho tôi hình dung sức khỏe của bạn như thế nào rồi.


*
Tôi quen biết Đoàn Đức đúng 50 năm.
Mùa thu 1972, tại liên trại tạm cư Hòa Khánh, phục hoạt trường trung học Triệu Phong, tôi được thuyên chuyển về đó, gặp Đức là thầy dạy Anh văn chủ lực đã mấy năm.
Qua đầu hè năm 1974, Đức và tôi cùng theo chương trình khẩn hoang lập ấp vào khu Láng Gòn (xã Tân Hà, huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận), tại đây, trường Nguyễn Phúc Chu mở, chúng tôi cùng công tác ở trường này, rồi tháng 7 năm 1975, cùng nhau nhập trại, "đồng lao cộng khổ".

Thứ Sáu, 17 tháng 9, 2021

LỜI TIỄN BIỆT ĐỖ TƯ NGHĨA CỦA HAI NGƯỜI BẠN VƯỜN ĐÀO – Nguyễn Thắng và Đoàn Đức


Nhà thơ Đỗ Tư Nghĩa
 


6 giờ 15 phút ngày 16 tháng 9 năm 2021, Cành-Đào bỗng gãy! Hoa Đào ngát hương phủ đầy mặt đất. Than ôi! Nghĩa đã mất thật rồi! Thời gian như ngừng lại... Hai đứa Thắng – Đức mắt nhòa lệ, tưởng như nhìn thấy cô giáo cũ Nguyễn Thị Nhã đang nắm tay Nghĩa dẫn đến lớp Đệ Tứ 2, trong ngôi trường Nguyễn Hoàng 57 năm về trước.

Từ nay không còn đủ “Tam-Anh-Vườn-Đào” mà Cô thường nhắc, để cố gắng học hành cho xứng với tên.
Nhớ ngày nào ba đứa chúng ta cùng nhau sáng chiều, mưa nắng đến trường. Những buổi học chung, những lần bắt chim, những ngày chủ nhật đi hái sim, hái ổi tận An Đôn, Nhan Biều…
 
Trong lớp, ba đứa luôn ngồi bàn đầu trước thầy cô giáo. Nghĩa giành ngồi giữa để có được Thắng – Đức cả hai bên, sao khôn thế? Những buổi thuyết trình trước lớp, Nghĩa cũng giành đọc phần giữa, không chịu trình bày nhập đề và kết luận, bởi biết rằng có Thắng và Đức kề bên.
 
Lên Đệ nhị cấp, Nghĩa cùng Đức về một lớp Ban C. Tội cho Thắng một mình lạc lõng ban B. Từ ấy, ba đứa chỉ còn gặp nhau cuối tuần hoặc mỗi tháng. Rồi dù tay vẫn còn nắm, nhưng đã buông lơi. Bởi những bóng hồng xinh đẹp vờn qua hư ảo.
 
Chúng ta vẫn nhớ nhau, gặp nhau dù mỗi người đi một lối. Đôi lúc ngồi lại, nhắc chuyện thuở học Đệ nhất cấp…
 
Lên Đại học, Thắng rẽ lối Y Khoa, chỉ còn lại Nghĩa Đức cùng vào Văn Khoa. Bốn năm Nghĩa đi vào con đường Triết học, truy tìm chân lý cùng Mậu Minh, Đình Hạnh, Lương Tuấn, Như Ngân… chọn nẻo về của ý để diễn đạt hết lòng mình.
Thắng và Đức đứng xa, nhìn hạnh phúc trong vòng tay của Nghĩa.
 
Chúng ta lời chưa nói, đêm nào đã nói; thường chúc phúc cho nhau dù mỗi người một nẻo. Nhưng sợi chỉ hồng “Vườn-Đào” vẫn luôn kết nối chúng ta, dù mỏng manh - bởi Cô Nhã đã buộc vào ba đứa từ độ hoa niên – không tài nào gỡ ra được! Thế nên, chúng ta luôn nhớ về nhau và mong gặp mỗi khi có dịp. Cho dù xa xôi cách trở bởi sông núi, chúng ta luôn gần gũi vì hằng nghĩ đến nhau trong tâm hồn.
 
Nay bạn ra đi, hai đứa còn lại buồn đau vì thấy mất đi một cái gì không nói được: đó là con tim thời thơ ấu chúng ta. Nó chiếm hết một phần ba đời người. Nghĩa là một phần đời của Thắng và Đức. Và ngược lại!
 
Nay về lại cố quận, Nghĩa được Cô Nhã, Thầy Bá, Thầy Tâm mừng đón rồi cùng họp mặt với các bạn đồng môn khác…
 
Nơi đây, Thắng với Đức luôn nghĩ Nghĩa không bao giờ mất đi. Nghĩa vẫn còn đó! Dalat là Nghĩa – Nghĩa là Dalat. Nghĩa hiển hiện phơi phới diệu kỳ giữa rừng thông cao vút, trên mặt hồ đầy sương mù, bên dòng suối thơ mộng và trong những cơn mưa nhạt nhòa hay nắng ấm vàng rực muôn ngàn cánh hoa dã quỳ thương nhớ. Thế là Thắng và Đức vẫn dễ dàng gặp Nghĩa dù âm dương cách biệt đôi đàng!
 
Thôi, chia tay với Nghĩa như ngày xưa, chia tay với con Phượng Hoàng gục chết giữa lửa hồng để hồi sinh trong những tác phẩm để đời!
 
Cho Thắng và Đức ngăn dòng lệ chảy tràn trên má để cố gắng mỉm nụ cười nhìn bạn đi xa.
 
                                     Viết cho Nghĩa ngày 17 tháng 9 năm 2021.
                                              Nguyễn Thắng – Đoàn Đức



      
Tam Anh Vườn Đào Trung học Nguyễn Hoàng (1960-1967)

Đỗ Tư Nghĩa và  Đoàn Đức

Đoàn Đức và Nguyễn Thắng





Thứ Năm, 9 tháng 9, 2021

NHẤT TỰ VI SƯ - Hồi ký của Hoàng Hóa


Tác giả bài viết Hoàng Hóa


 Khoảng đầu tháng 8/1973, những chuyến xe khách khoảng 45 chỗ của các hãng xe  chuyên chạy đường dài Sài gòn - Đà nẵng Phi Long, Tiến Lực, Thuận Thành, Miền Trung... đón nhiều gia đình ở trong trại tạm cư Hòa Khánh ĐN đã chấp nhận rời bỏ nơi chôn rau (nhau) cắt rún của mình đang  ở bên kia dòng sông Thạch Hãn - là Khu Phi Quân sự theo Hiệp định đình chiến Paris - đi vào phương Nam theo chương trình "khai hoang lập ấp" do Quốc Vụ Khanh Phan Quang Đán của chính phủ VNCH đặc trách, dưới sự dẫn dắt của  các vị lãnh đạo tinh thần, tôn giáo, đặc biệt là các vị Linh mục Công giáo, đến khu nhà lá dựng tạm tại ấp Động Đền xã Phước Thuận, huyện Hàm Tân, Bình Tuy sau hành trình khá dài - hơn 24 tiếng đồng hồ. Xe xuất phát tại Hòa Khánh vào khoảng 10 giờ sáng, nghỉ qua đêm tại Sông Cầu - Phú Yên và đến Động Đền vào khoảng 4 giờ chiều ngày hôm sau.
 

Thứ Bảy, 18 tháng 5, 2019

“HOÀI NIỆM THẦY CÔ GIÁO” CỦA NGƯỜI THẦY ĐÁNG KÍNH - Võ Văn Cẩm

Nguồn:
https://nld.com.vn/van-nghe/hoai-niem-thay-co-giao-cua-nguoi-thay-dang-kinh-20190517211914028.htm

                     
                                   Tác giả Võ Văn Cẩm 


              “HOÀI NIỆM THẦY CÔ GIÁO” 
               CỦA NGƯỜI THẦY ĐÁNG KÍNH

19 năm cặm cụi đèn sách, chúng ta có biết bao nhiêu người thầy truyền đạt kiến thức, tạo nên vóc dáng cho một con người đủ kiến thức căn bản bước vào đời.
Ngoái nhìn lại, có bao nhiêu học trò ghi lại công đức của người dạy dỗ mình? Dù rằng mỗi người vào đời bằng những con đường khác nhau, thời gian cắp sách cũng tùy vào hoàn cảnh từng người và rất nhiều thầy dạy nhưng mối quan hệ mỗi thầy cô mỗi khác, cho nên chúng ta hiếm hoi bắt gặp những trang sách học trò viết về thầy mình.

Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2019

CẢM NHẬN CỦA TÔI VỀ TẬP: “HOÀI NIỆM THẦY CÔ GIÁO” CỦA ĐOÀN ĐỨC - Võ Văn Cẩm


                 
                             Tác giả Võ Văn Cẩm 


CẢM NHẬN CỦA TÔI VỀ TẬP: “HOÀI NIỆM THẦY CÔ GIÁO” CỦA ĐOÀN ĐỨC
                                                                          Võ Văn Cẩm

Cách đây gần 2 năm, tôi nhận được tập “Hoài niệm Thầy Cô giáo” của Đoàn Đức.
Thầy, cô giáo là người có ảnh hưởng rất lớn về nhân cách con người và nhận thức cuộc sống.
Để vượt qua việc học ở trường, ở lớp, ở giảng đường chúng ta phải mất 19 năm : 3 năm Mẫu giáo, 5 năm Tiểu học, 7 năm Trung học và 4 năm Đại học.
19 năm cặm cụi đèn sách, chúng ta có biết bao nhiêu người thầy truyền đạt kiến thức, tạo nên vóc dáng cho một con người đủ kiến thức căn bản bước vào đời.
Ngoái nhìn lại, có bao nhiêu người học trò ghi lại công đức của người dạy dỗ mình? Dù rằng mỗi người vào đời bằng những con đường khác nhau, thời gian cắp sách cũng tùy vào hoàn cảnh từng người, dù rất nhiều thầy dạy, nhưng mối quan hệ mỗi thầy cô mỗi khác, cho nên chúng ta hiếm hoi bắt gặp những trang sách học trò viết về thầy mình.
Đặc biệt mối quan hệ thầy trò khó diễn đạt và nhạy cảm, mối quan hệ ấy khó viết thành sách, vì mỗi thầy cô dạy ta thời gian không lâu, nên khó lưu lại những dấu ấn trong thời gian ngồi ở trên ghế nhà trường.
Vì quan niệm giáo dục có ranh giới ngăn cách quá lớn giữa thầy và trò, chỉ có những người học trò xuất sắc, kiến thức vượt trội, nên mối quan hệ thầy trò thoáng hơn, trường hợp này tình thầy trò như một người bạn đời tri kỷ: Đoàn Đức là người học trò cá biệt ấy.
Kiến thức cảm thụ của học sinh, khó đủ số liệu để diễn đạt cách dạy của thầy mình, đây là một rào cản, một việc làm khó khăn.

Thứ Tư, 1 tháng 5, 2019

VÀI DÒNG VỀ TẬP SÁCH “HOÀI NIỆM THẦY CÔ GIÁO” CỦA ĐOÀN ĐỨC – Lê Duy Đoàn


    

    


Sáng nay 29/4, gặp uống cà phê ở Thuỷ Trúc với một bạn rất tài năng và rất thú vị: anh Đoàn Đức, cựu học sinh TH Nguyễn Hoàng, Quảng Trị. Anh tặng tôi 4 quyển sách HOÀI NIỆM THẦY CÔ GIÁO (tái bản thêm trang 336 trang). Đọc nhận xét của Lê Duy Đoàn ở BÌA 4 của sách là lời trung thực về cuốn sách. Một cuốn sách giá trị và đáng tìm đọc! Giá trị nhân văn là tình nghĩa của học trò thập niên 1960 với thầy cô giáo được khắc ghi trong dạ một người học trò có tâm và có tình.
Anh Đức tặng thêm nước mắm nhỉ và mắm nêm tự làm cho thêm phần ý vị!
Quý hoá thay! Cám ơn bạn Đức !

                                                                  Lê Duy Đoàn

          

          

Chủ Nhật, 3 tháng 6, 2018

LỜI RIÊNG…TRONG TẬP SÁCH "ĐOÀN ĐỨC VÀ NHỮNG HOÀI NIỆM VỀ THẦY CÔ CŨ" - Đoàn Đức, Lê Mậu Minh, Đào Văn Nhẫn, Đỗ Tư Nhơn, Tống Văn Thụy, Đỗ Tư Nghĩa, Nguyễn Thắng, Nguyễn Đình Hạnh, Hồ Trị, Trần Phong Dũng,Ngô Thị Hương Thủy,Nguyễn Lương Tuấn, Trần Quang Chu, Nguyễn Văn Trị, Võ Thị Quỳnh, Huỳnh Bá Huy, Trần Ngọc Hợp, Lê Mậu Trúc, Nguyễn Phụng Lương Nhi, Lê Duy Đoàn, Hoàng Văn Thắng, thầy Hồ Si ̃Châm


       

LỜI RIÊNG…TRONG TẬP SÁCH 
"ĐOÀN ĐỨC VÀ NHỮNG HOÀI NIỆM VỀ THẦY CÔ CŨ"

Thoạt đầu Lê Mậu Minh khởi xướng và yêu cầu tất cả các bạn viết bài cho đặc san về khối lớp 1960-1967 của trường Trung học Nguyễn Hoàng Quảng Trị và lấy tên là Hoa Bất Tử. Tôi lúng túng làm một bài thơ gởi cho Mậu Minh đăng, thì vợ tôi chê dở. Hai tháng vẫn không viết được một chữ nào, trong khi đó các bạn tôi đều viết xong để gởi đăng, tôi lo lắng vì đến hạn mà vẫn chưa xong. Bạn Nguyễn Thắng ở Huế cá với Nguyễn Đình Hạnh ở Đông Hà 10 triệu đồng rằng tôi viết không tới hai trang giấy A4. Đình Hạnh điện thoại nói với tôi: “Hồi xưa bạn học ban C văn chương, sinh ngữ mà nay không viết được chữ nào để Thắng cười à. Hãy giúp mình thắng cá độ đi”. Tôi liền ngồi viết một mạch về thầy Trần Thương Bá, được 34 trang viết tay A4. Ban biên tập gồm Lê Mậu Minh, Nguyễn Văn Quang… khi duyệt bài thì bảo rằng: “Không đăng được vì quá dài, mà cắt ngắn thì không nỡ”. Hơn nữa, đã có anh Đỗ Tư Nhơn viết về thầy Bá nên Ban Biên tập đề nghị tôi nên viết về thầy cô cấp II. Tôi tự ái trả lời: “Thế thì tôi sẽ viết luôn một loạt bài về quý thầy cô, các bạn muốn đăng sao thì đăng”. Nói là làm, tôi viết liên tục về bảy thầy cô. Sau khi đọc xong các bạn khuyên tôi không nên đăng vào tập san chung nữa mà in riêng thành một tập dành tặng cho quý thầy cô, các bạn cùng lớp và cho cả chính tôi. Trong quá trình viết, tôi nhận được rất nhiều niềm vui trong đó có sự động viên của hiền nội tôi - Cao Thị Thanh Nhàn, công đánh máy của con gái và con dâu tôi (dù tôi biết các cháu đôi lúc cũng thấy phiền vì sự lẩm cẩm của ba chúng), cũng không quên ơn cô Thoa – một người bạn vui tính – đã đánh máy cho tôi khi các con tôi bận. Tôi chắc sẽ không quên vẻ mặt nhăn nhó của Đào Văn Nhẫn khi phải đọc và sửa lỗi các trang viết qua email, tranh cãi về trích dịch tiếng Pháp từ nguyên tác dù đây là ký ức chứ không phải tôi dịch hay sáng tác. Còn Nguyễn Đình Hạnh thì hứa mà chỉ sửa sơ lược phần thi ca trong bài. Đỗ Tư Nghĩa thì lười. Nguyễn Văn Quang, Tống Văn Thụy thì tế nhị, cả nể. Nguyễn Thắng thì bận rộn khám bệnh, Nguyễn Văn Hóa chịu khó đọc lại các bản nguyên tác Hán - Nôm để sửa, không những về từ ngữ, dấu chấm phẩy mà còn lo cả phần kiểm duyệt (Đúng là nguyên thầy giáo chuyên văn kiêm giám đốc nhà in!). Riêng cảm ơn Nguyễn Trường Thi, học trò cũ của tôi, đã giúp đính chính những thiếu sót, thêm vào một số nguồn có liên quan đến Anh ngữ và về thầy Gary Carkin, trình bày vi tính, dàn trang và đề nghị khổ sách… trước khi gởi bản thảo cho nhà xuất bản. Cũng không quên cảm ơn nhà tài trợ chuyến đi Đà Lạt - Nguyễn Thắng, do thua cá cược 10 triệu đồng nên tháng 3/2017 đã cùng vợ vào Sài Gòn đưa Đình Hạnh, Mậu Minh, vợ chồng tôi, Võ Cẩm, cô Thoa đi Đà Lạt thăm Đỗ Tư Nghĩa để tiêu cho hết tiền thua độ. Tiếc là Mậu Minh không đi được.
Ôi qua bao nhiêu năm mà tôi vẫn còn được trở về “tuổi thơ chí chóe cùng chúng bạn”. Thật diễm phúc biết bao!

Thứ Bảy, 19 tháng 5, 2018

LỜI BẠT "ĐOÀN ĐỨC VÀ NHỮNG HOÀI NIỆM VỀ THẦY CÔ CŨ" - Nguyễn Văn Quang


            

   LỜI BẠT 
   "ĐOÀN ĐỨC VÀ NHỮNG HOÀI NIỆM VỀ THẦY CÔ CŨ"

Năm mươi ba năm về trước, tôi quen biết Đoàn Đức khi cùng bước chân vào lớp Đệ Tam C (lớp 10), trường Trung học Nguyễn Hoàng - Quảng Trị. Tôi thuở nhỏ thất học nên khi vào Đệ Nhị Cấp người đã cao lớn như một thanh niên. Đức là dân thành thị, được học hành sớm nên so với tôi, anh nhỏ hơn, cỡ bằng tuổi em mình. Tuy nhiên, khi nhận biết Đức thông minh, học giỏi, có trí nhớ tuyệt vời và đam mê học tập, nhất là sự hòa đồng với bạn bè, tôi đã quyết định kết thân với Đức để trao đổi việc học tập, không có mặc cảm lớn-nhỏ, tỉnh-quê. Sau một thời gian, khi đã quen thân nhau, tôi thường lui tới nhà Đức học hoặc chuyện trò. Một hôm tôi đến nhà thì Đức đi vắng; cụ thân sinh của Đức niềm nở tiếp đón và chân tình nói với tôi: “Em Đức nó còn nhỏ, trẻ người non dạ, có gì ở lớp cháu góp ý giúp đỡ cho em với”. Tôi nghe mà thấy hổ thẹn với lời nhờ của cụ. Có lẽ ông cụ tưởng tôi lớn người nên khôn ngoan, tài giỏi hơn Đức, còn thằng con út Đoàn Đức của cụ thì còn ngây thơ, khờ khạo lắm, cần có người lớn tuổi kèm cặp thêm. Tôi lễ phép và chân thành thưa lại với cụ: “Thưa bác, cháu là học sinh từ quê lên, thuở nhỏ thất học nên bây giờ lớn xác rồi mà phải cùng học với các bạn nhỏ tuổi hơn. Cháu thấy bạn Đức giỏi lắm, trẻ người nhưng không non dạ đâu mà bác lo. Cháu còn phải học ở Đức nhiều thứ chứ đâu dám bày vẽ thêm cho Đức điều gì.”

Thứ Tư, 9 tháng 5, 2018

THAY LỜI KẾT TẬP SÁCH "HOÀI NIỆM THẦY CÔ GIÁO" - Đoàn Đức


          


 THAY LỜI KẾT TẬP SÁCH "HOÀI NIỆM THẦY CÔ GIÁO"
                                                                               Đoàn Đức

Thầy cô trường Nguyễn Hoàng rất có tình cảm và quan tâm đến học sinh, không phải chỉ ở trong nhà trường khi còn học, mà ngay cả sau này khi ra đời; gặp nhau trong quân trường, ra đơn vị quân đội, tại nhiệm sở công tác, cùng dạy tại một trường hay khi gặp khó khăn trong cuộc sống và trái lại học trò đối với thầy cô cũ cũng thế. Quý thầy cô đã thực hiện sứ mệnh cao cả của một người cầm phấn. Người xưa nói gặp gỡ nhau là có sẵn duyên, được làm thầy trò với nhau lại là cái duyên lớn của nhiều kiếp trước. Chính vì vậy những người học trò chúng tôi luôn tri ân thầy cô đã truyền thụ những kiến thức, dạy dỗ nên người và luôn cố gắng sống xứng đáng là người có học, có giáo dục để kế tục sự nghiệp của thầy cô bằng cách sống đạo đức, chân thật, có hiểu biết; đồng thời truyền thụ những gì mình học được cho thế hệ sau.
 

Thứ Tư, 21 tháng 3, 2018

THẦY GARY CARKIN, GIÁO SƯ DẠY ANH VĂN TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG - Đoàn Đức


    

Thầy Gary Carkin
Dạy Đàm Thoại Tiếng Anh Lớp Đệ Nhất C (Lớp 12) NK 1966-1967

Lần đầu tiên trường Nguyễn Hoàng có giáo sư người Mỹ đến dạy đàm thoại luyện giọng và văn chương Mỹ tại các lớp ban Văn chương sinh ngữ như ở đại học. Đây là một sự kiện mới lạ ở một ngôi trường tỉnh nhỏ. Thầy người xứ Vermont, tiểu bang vùng đông bắc Hoa Kỳ, tốt nghiệp M.A tại trường đại học Vermont. Thầy cùng với nhiều người Mỹ khác tốt nghiệp Đại học đến Việt Nam trong chương trình “Cơ quan chí nguyện quốc tế” International Volunteer Service (viết tắt là IVS) để dạy tiếng Anh cho các trường Đệ Nhị Cấp có ban C và Đại học Văn khoa.

Thứ Sáu, 2 tháng 3, 2018

THẦY LÊ MẬU TÂM, GIÁO SƯ DẠY MÔN TRIẾT TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG - Đoàn Đức


        

Thầy Lê Mậu Tâm
Dạy Triết lớp Đệ Nhất C (Lớp 12) Trung Học Nguyễn Hoàng Quảng Trị niên khóa 1966-1967

Trường trung học Đệ Nhị Cấp Nguyễn Hoàng cho đến hè năm 1966 chỉ có lớp Đệ Nhất ban A và ban B. Học sinh ban C sau khi đậu Tú Tài bán phần (Tú Tài I) nếu không chuyển qua ban khác, muốn tiếp tục học ban C thì phải vào Huế học ở trường Quốc Học (nam) hay trường Đồng Khánh (nữ).
Sau khi thi đậu, tôi và Nguyễn Văn Quang đem toàn bộ hồ sơ học sinh cùng với giấy giới thiệu chuyển trường của thầy Hiệu trưởng Thái Mộng Hùng đem nạp vào trường Quốc Học. Trường Quốc Học không mặn mà với học sinh Quảng Trị và chúng tôi cũng không có duyên với trường Quốc Học nên Quang và tôi (là hai người không muốn vào Huế học vì điều kiện kinh tế) ôm hồ sơ về lại trường Nguyễn Hoàng, thuật chuyện với thầy Hùng. Sau khi lắng nghe nỗi lòng ấm ức của chúng tôi, thầy gật đầu quyết định mở lớp Đệ Nhất C. Tôi và Quang mừng như hồi còn nhỏ mừng mẹ đi chợ về. Vấn đề không phải là trước đây không mở được lớp Đệ Nhất ban C mà vì không đủ sĩ số và thiếu một giáo sư ban Triết tốt nghiệp Đại học Sư phạm. May thay, năm này có thầy Tâm là giáo sư môn Triết, tốt nghiệp Đại học Sư phạm về dạy, và sĩ số chúng tôi là 28 người gồm hai ban Anh văn và Pháp văn. Vậy lớp Đệ Nhất C chúng tôi là lớp đầu tiên, và trường Nguyễn Hoàng trở thành trường Đệ Nhị Cấp có đầy đủ các ban. Xin cám ơn thầy Ký hiệu trưởng trường Quốc Học lúc bấy giờ, là người tạo nên sự về lại trường Nguyễn Hoàng của chúng tôi.

Thứ Hai, 12 tháng 2, 2018

THẦY HỒ SĨ CHÂM, GIÁO SƯ DẠY ANH VĂN TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG QUẢNG TRỊ - Đoàn Đức


     

Thầy Hồ Sĩ Châm
Dạy Anh văn lớp Đệ Nhất C (Lớp 12). NK 1966 – 1967
 
Năm lớp Đệ Nhất C, thầy Hồ Sĩ Châm dạy chúng tôi môn Anh văn, sinh ngữ 1. Được biết thầy tốt nghiệp chuyên ngành Cử nhân Văn chương Anh Mỹ (B.A. in English Literature) và sinh ngữ phụ là Pháp và Đức ngữ, tại Hoa Kỳ. Thầy xuất thân trong dòng tộc Hồ Sĩ có tiếng ở Quảng Trị nên chúng tôi rất ngưỡng mộ. Ngày đầu tiên thầy vào lớp, trông thật hiền lành, dáng người trung bình, nhỏ nhắn. Thầy đọc và giảng bài như các thầy tốt nghiệp ĐHSP Huế hay Sài Gòn chứ không có vẻ “Mỹ” chút nào cả, chỉ có khác là thầy nói tiếng Anh rất tự nhiên và lưu loát. Năm học lớp Đệ Nhất C, bạn thân của tôi, Đỗ Tư Nghĩa vì buồn tình nên xin học miễn chuyên cần, chỉ tới lớp học môn Triết mà thôi chỉ khi nào thi Đệ Nhất Lục Cá Nguyệt hay Đệ Nhị Lục Cá Nguyệt (tức học kỳ I và II) thì mới có mặt đầy đủ để thi các môn. Tôi thoạt đầu thấy trống vắng và buồn vì Nghĩa ngồi cùng bàn sát bên trái tôi suốt sáu năm liền; nay năm cuối chỉ còn lại mình tôi. Thế nhưng rồi cũng quen vì đã có người khác thay thế ngồi bên cạnh. Bấy giờ tôi phải giơ tay hoạt động nhiều hơn và lên bảng nhiều hơn vì lớp chỉ còn 13 người mà tiếng Anh là môn chính, hệ số 3, sáu giờ một tuần.

Thứ Hai, 5 tháng 2, 2018

THẦY TRẦN THƯƠNG BÁ, GIÁO SƯ DẠY VIỆT VĂN TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG - Đoàn Đức

 
           

Thầy Trần Thương Bá
Dạy văn lớp Tam C (lớp 10) – Niên Khóa 1964 – 1965

Trường Nguyễn Hoàng từ khi có Đệ Nhị Cấp thì học sinh Đệ Nhất Cấp đeo bảng tên màu đỏ, học sinh Đệ Nhị Cấp bảng tên màu xanh đậm, biên giới giữa 2 cấp là bằng Trung học Đệ Nhất Cấp, còn gọi là bằng Thành Chung, bằng Diplôme; (với bằng này có thể đi thi cán sự y tế và ra trường dư sức nuôi vợ con, nếu đi lính thì mang cấp bậc Trung sĩ.) Vì thế học sinh bảng đỏ chúng tôi kính ngưỡng học sinh bảng xanh Đệ Nhị Cấp là đàn anh hay bậc thầy, vì họ đã đậu Diplôme, và Tú Tài I.
Chúng tôi sau khi thi đậu Diplôme, như qua một thế giới khác – Đệ Nhị Cấp với bảng tên màu xanh dương đậm và được phân ban theo sở thích, năng lực. Ban A: Sinh vật và lý, hóa là môn chính, Ban B: Toán và lý, hóa là môn chính, Ban C: Văn, sinh ngữ 1 là môn chính, hệ số 3, sinh ngữ phụ và sử địa hệ số 2.
Ba đứa bạn thân chúng tôi đành chia lìa: Tôi và Đỗ Tư Nghĩa cùng vào ban C vì kém Toán, Lý, Hóa. Còn Nguyễn Thắng chọn ban B vì giỏi Toán, Lý, Hóa. Thế nên tôi viết về một vị thầy dạy văn có nhiều ấn tượng đối với tôi ở cái tuổi hình thành nhận thức của mình đó là thầy Trần Thương Bá.
Tôi chỉ được học với Thầy về Ca daoChinh Phụ Ngâm hơn một học kỳ, bởi sau đó Thầy phải lên đường nhập ngũ.

Thứ Hai, 29 tháng 1, 2018

CÔ NGUYỄN THỊ THANH, GIÁO SƯ DẠY PHÁP VĂN TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG QUẢNG TRỊ - Đoàn Đức


             

     CÔ NGUYỄN THỊ THANH, GIÁO SƯ DẠY PHÁP VĂN 
     TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG QUẢNG TRỊ

Cô Nguyễn Thị Thanh
Dạy Pháp Văn sinh ngữ 2 Đệ Tam C (Lớp 10) và Đệ Nhị C (Lớp 11)
- Trong hai niên khóa 1964 - 1965, 1965 -1966

Lên Đệ Nhị Cấp, cô Thanh là người tôi rất quý mến, gia đình cô ở Thạch Hãn, quận Mai Lĩnh cùng làng với tôi. Chính nhờ cô mà tôi thích tiếng Pháp, rồi say mê văn chương cùng các trào lưu văn học Pháp từ lãng mạn, siêu thực, tương trưng cho đến hiện sinh. Tuổi thơ Đệ Nhị Cấp tôi miệt mài với các tác phẩm Lettres De Mon Moulin (Lá Thư Hè) của Alphonse Daudet, La Porte Étroite (Khung Cửa Hẹp) La Symphonie Pastorale (Hòa Âm Điền Dã) của André Gide, Bonjour Tristesse (Buồn Ơi Chào Mi), Aimez Vous Brahms (Cô thích nhạc Brahms ?) của Francoise Sagan và Le Malentendu (Ngộ Nhận), Le Vent à Djémila (Gió về Djémila), Le Mythe De Sisyphe (Huyền Thoại Sisyphe) của Albert Camus… là từ sự hướng dẫn dạy dỗ, khơi gợi của nhiều thầy cô, trong đó cô là người chủ yếu.

Thứ Hai, 22 tháng 1, 2018

CÔ NGUYỄN THỊ NHÃ, GIÁO SƯ DẠY VIỆT VĂN TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG - Đoàn Đức


         

CÔ NGUYỄN THỊ NHà
(Dạy Việt Văn lớp Đệ Lục 2 (Lớp 7) và Đệ Tứ 2 (Lớp 9), NK 1961-1964 - Chủ nhiệm lớp Đệ Tứ 2)

Cô giáo thời Đệ Nhất Cấp tôi quý mến nhất là cô Nguyễn Thị Nhã, là người chú tâm huấn luyện học sinh giỏi luật thơ và trở thành người biết phê bình văn học. Năm Đệ Lục, khi dạy thơ Bà Huyện Thanh Quan cô giảng luật thơ Đường Thất ngôn bát cú rất kỹ, cô nói thể thơ gồm bảy chữ tám câu, luật trắc vần bằng và luật bằng vần bằng. Thứ tự câu gồm : Phá đề, thừa đề, thực, luận và kết. Về niêm thì chữ thứ hai câu một niêm với chữ thứ hai câu tám, câu hai niêm với câu ba, câu bốn niêm với năm và câu sáu niêm với bảy, và cùng thanh bằng hay trắc. Về đối thì chỉ đối ở hai câu thực và hai câu luận. Khi đối thì danh từ đối với danh từ, động từ với động từ, trạng từ đối với trạng từ; từ Việt đối vời từ Việt, từ Hán đối với từ Hán; và còn phải đối ý nữa :

     Gác mái ngư ông về viễn phố.
     Gõ sừng mục tử lại cô thôn
           (Chiều Hôm Nhớ Nhà)

Thứ Ba, 9 tháng 1, 2018

THẦY TRƯƠNG NGỌC HỘI, NGƯỜI THẦY KỲ LẠ DẠY ANH VĂN LỚP ĐỆ NGŨ 2, NK 1962-1963 - Đoàn Đức

     
            

THẦY TRƯƠNG NGỌC HỘI - NGƯỜI THẦY KỲ LẠ DẠY ANH VĂN LỚP ĐỆ NGŨ 2,  TRƯỜNG NGUYỄN HOÀNG 
                                 NIÊN KHÓA 1962 - 1963

Thầy người ốm dáng cao da ngăm, tóc chải vuốt, thích mặc áo màu rêu. Đến trường, thầy ít giao tiếp với các thầy cô khác, bao giờ cũng như con sếu cô độc. Ở trường Nguyễn Hoàng thầy dạy tiếng Anh, nhưng dạy thêm “cua” toán ở trường nữ Phước Môn thì thầy lấy tên là Hoàng Ly Yến. Nghĩa và tôi đoán mò, người tình của thầy là Yến hay Hoàng Yến vì biệt hiệu trên là “Hội loves Yến” chúng tôi cũng thỉnh thoảng gọi thầy bằng tên này và nói cho thầy biết cách giải thích trên, thầy chỉ cười vui, nụ cười đó hàm ý mắng chúng tôi “đồ ranh con mà”.
Thầy Hội dạy không theo chương trình, mà dạy theo ý thầy. Thầy dạy thơ và đoạn trích từ các truyện dài hay ngắn Tiếng Anh. Con nít lớp Đệ Ngũ (lớp 8) mà học thơ tình của Lord Byron, John Keats. Nếu bây giờ, cách dạy như vậy sẽ bị đưa lên báo, lên mạng và bị phê bình, kiểm điểm là điều chắc chắn. Với chúng tôi nhờ thế mà sau này lên lớp Đệ Nhất (12) và vào đại học Anh Văn lại trở nên quen thuộc với văn chương Anh Mỹ. Tôi xin ghi lại phần lớn những bài dạy và lời giảng của thầy theo trí nhớ của mình.

Chủ Nhật, 7 tháng 1, 2018

CẢM TƯỞNG KHI ĐỌC "ĐOÀN ĐỨC, HOÀI NIỆM THẦY CÔ GIÁO” - Bản Tiếng Anh của thầy Hồ Sĩ Châm

Bản viết bằng tiếng Anh CẢM TƯỞNG KHI ĐỌC "ĐOÀN ĐỨC - HOÀI NIỆM THẦY CÔ GIÁO” của thầy Hồ Sĩ Châm.
Mời xem bản Tiếng Việt ở phía dưới




               THE IMPRESSION ON READING 

             "REMINISCENCES OF TEACHERS"
                                   Translated by Ho Si Cham                  

Writing this is not for me personally and I would like ask for permission to represent the colleagues who had taught at Nguyen Hoang High school the same time with me.

Thứ Năm, 14 tháng 12, 2017

TIẾNG VỌNG TỪ MỘT TẬP SÁCH - Võ Thị Quỳnh


             


 TIẾNG VỌNG TỪ MỘT TẬP SÁCH

Từ khi làm tập sách Trường Nguyễn Hoàng- Chân dung & Kỷ niệm, tôi đã đọc được bao nhiêu là hồi ức… về thầy cô giáo Nguyễn Hoàng… Tôi đã khâm phục trí nhớ của rất nhiều anh, chị, em đồng môn Nguyễn Hoàng gởi kỷ niệm xưa về cho tôi. Có hai người đẹp Nguyễn Hoàng tên Thủy, có trí nhớ theo tôi vào loại siêu, nhưng một người thì còn lo viết truyện ngắn và… nên chỉ góp nhớ chút xíu dinh dính cho người ta thèm thôi (Ngô Hương Thủy); còn một người thì tuyên bố: “Khi mô có ai thổ đựng được ta cho chữ chạy ngược ra thì ta mới viết” (Phan Quỳnh Thủy). Riêng anh Đoàn Đức và chị Cao Thị Thanh Nhàn, cho đến tập cuối - Nguyễn Hoàng 10 – chỉ là lá thư khất nợ (hoài hoài, mãi mãi) của anh chị, dẫu ngày xưa cặp đôi ni là dân ban C nổi tiếng.

Thứ Tư, 13 tháng 12, 2017

ĐỌC "ĐOÀN ĐỨC - HOÀI NIỆM THẦY CÔ GIÁO" - Nguyễn Lê Văn


         

   ĐỌC "ĐOÀN ĐỨC - HOÀI NIỆM THẦY CÔ GIÁO"
                                                                     Nguyễn Lê Văn

Thầy cô giáo là những người gần gũi trong quãng đầu đời mà ta đã kính trọng, thương mến như ruột thịt, như tri kỷ, thậm chí như người bạn đường thủy chung, như chiếc bóng dẫn đường mà ta không thể nào vượt qua được. Nhưng khi trưởng thành, có lúc phút chốc nào đó, ta cảm thấy thầy cô trở nên xa lạ chỉ còn là những kỷ niệm “quên đi trong nỗi nhớ”.
Với Đoàn Đức thì không thế, anh viết “Hoài niệm thầy cô giáo” ở cái tuổi “Thất thập nhi tòng tâm sở dục bất du củ” (Luận ngữ - Khổng Tử) trong tâm thế tịch chiếu, với tâm thần lặng yên, tự nhiên soi tỏ nên hầu như không sai sót một thứ gì. Bằng trí huệ tưởng như hoằng viễn, với tình cảm phú dật, thênh thang của một tấm lòng, anh đã đưa ta về, đi trên con đường cổ tích, tìm lại những bước chân xưa dù đã tan nhưng vẫn ghi những dấu ấn không thể nào tan được. Những tầng tầng, lớp lớp, những mảng khối ký ức của một thời dĩ vãng, của thầy cô bạn bè “mất còn – còn mất” và cả của chính bản thân anh đã để lại cho chúng ta niềm tự hào nhưng cũng không thiếu những xót xa. Với anh, thầy cô, bản thân, bạn bè, thời dĩ vãng là một thể thống nhất biện chứng không thể tách rời được, “không chỉ khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà ngay cả lúc vào đời”.