Nhà bình thơ Phạm Đức Nhì
Vài
Nét Về Emily Dickinson
Nhà thơ Emily Dickinson sinh ngày 10/12/1830 tại
Amherst, Massachusetts, USA. Sau khi học 7 năm ở Amherst Academy bà vào học tại
chủng viện Mount Holyoke một thời gian ngắn rồi trở về nhà ở Amherst, sống đời
biệt lập. Bà chưa từng lập gia đình, tự giam mình trong phòng riêng, không
thích và luôn tránh né giao tiếp, gặp gỡ.
Mọi quan hệ của bà với bạn bè, người quen biết hầu như đều qua thư từ.
Trong số 1775 bài thơ bà sáng tác (2) chỉ có một lá
thư và 10 bài thơ được phổ biến lúc sinh thời (3). Sau khi bà chết (15/05/1886)
thì em gái bà, Lavinia, mới khám phá khối lượng thơ đồ sộ đó và “hơi thở từ những tác phẩm của bà” mới đến
được với công chúng.
Dưới đây là 2 bài thơ trong tuyển tập “A Freight of
Feathers – 50 Brief Poems by Emily Dickinson” (Một Bó Lông Vũ – 50 Bài Thơ Ngắn
của Emily Dickinson) (2)
A Word Is Dead (4)
A
word is dead
When
it is said,
Some
say.
I
say it just
Begins
to live
That
day.
Dịch thoát:
Có
người cho rằng
Một
chữ khi được nói (viết) ra
Là
đã chết
Tôi
nói
Nó
chỉ bắt đầu sống
Từ
hôm đó
Tìm
Gặp Tứ Thơ:
Nói rõ hơn, con chữ chết là con chữ còn nằm trong tự
điển. Khi con chữ được nói hoặc viết ra nó sẽ thuộc về một ngữ cảnh, một văn bản
nào đó, bắt đầu được lưu truyền và bắt đầu sống. Nếu được đặt đúng chỗ (đắc địa) trong một câu
hay, một bài thơ có tứ mới lạ hoặc ý tưởng cao siêu nó sẽ tạo được ấn tượng sâu
đậm nơi người đọc, người nghe và sẽ sống rất lâu. Ngược lại, nó sẽ chết yểu, sẽ
nhanh chóng đi vào quên lãng. Tác giả, qua bài thơ rất ngắn, nói đến sức sống của
“con chữ” trong thơ (và cả trong cuộc đời).
Nhận
Xét:
1/ Bài thơ rất ngắn: Có 19 chữ (20 âm tiết).
2/ Ngôn ngữ đơn giản (có đến 18 chữ đơn âm), tuyển lựa
kỹ càng, câu cú, ý tưởng mạch lạc
3/ Vần: Hai cặp vần, một liên tiếp (dead, said), một
gián cách (say, day), đọc lên âm vang của thơ rất vừa ngọt.
4/ Biện pháp tu từ: So sánh tương phản – câu sau đối
chọi chan chát với câu trước làm nổi bật ý nghĩa của bài thơ.
5/ Tứ thơ sâu sắc – nói đến sức sống của “con chữ”
trong thơ (và cả trong cuộc đời)
6/ Viết theo lối Kiếm Tông, chú trọng câu chữ, ý tứ,
biện pháp tu từ - nói chung là cái đẹp của văn chương.
7/ Cảm xúc từ câu chữ, bố cục (tầng 1+2) khá mạnh.
8/ Bài thơ tựu trung chỉ là một phát biểu, không giải
thích, mặc dù tâm đã đối cảnh nhưng lý trí hầu như hoàn toàn đạo diễn bài thơ,
không có xốn xang, rung động riêng của tác giả nên không có cảm xúc tầng 3. Thiếu
hẳn chữ “tình” và “chất thơ”.
An Hour is a Sea
An
Hour is a sea
Between
a few, and me -
With
them would Harbor be -
Dịch sát:
Một
tiếng đồng hồ là một đại dương
Nằm
giữa một số ít người và tôi
Bến
Cảng sẽ ở chỗ họ
Dịch thoát:
Một
tiếng đồng hồ là thời gian để vuợt một đại dương
Nằm
giữa một số ít người và tôi
Mà
họ là Bến Bờ tôi hướng tới.
Tìm
Gặp Tứ Thơ
Tứ thơ ở đây hơi khó “bắt” vì trên văn bản tác giả
chưa cung cấp đầy đủ dữ kiện. Nhóm chữ “Một tiếng đồng hồ” (An hour) có vẻ hơi
xa lạ với phần còn lại của bài thơ. Tôi
đã đọc kỹ tiểu sử của tác giả thêm vài lần và nhận thấy một chi tiết hữu ích:
“Bà chưa từng lập gia đình, tự giam mình trong phòng riêng, không thích và luôn
tránh né giao tiếp, gặp gỡ. Mọi quan hệ
của bà với bạn bè, người quen biết hầu như đều dựa trên thư từ.”
Và một chi tiết quan trọng nữa: Ba câu thơ này nằm ở
đoạn cuối một lá thư ngắn bà viết cho Susan (chị dâu), một trong “số rất ít”
nguời thân của mình. (5)
Và tôi đã có trong tay một số dữ kiện:
1/ Giữa tác giả và một số rất ít bạn bè là cả một đại
dương xa cách.
2/ Không gặp gỡ mà chỉ liên lạc qua thư từ.
3/ Họ là Bến Cảng (Harbor) ở bên kia bờ đại dương.
4/ Thư từ với họ là một “hành trình vượt đại dương”
5/ Thời gian của “hành trình vượt đại dương” (viết
thư) là khoảng một tiếng đồng hồ. Cũng có thể một tiếng đồng hồ chỉ có tính
cách tượng trưng, một thời gian giả định, lúc bà nghĩ đến “một số rất ít” bạn
bè và viết thư cho họ.
Với những dữ kiện trên đây độc giả có thể tư ghép lại
để “gặp” tứ thơ không khó lắm.
Nhận
Xét:
1/ Bài thơ cực ngắn: Chỉ có 15 chữ (17 âm tiết).
2/ Vần: Cước vận ở cả 3 câu. Vị ngọt của thơ rõ nét.
3/ Ngôn ngữ chắt lọc, đặc quẹo, không thể cắt xén.
4/ Con đường dẫn đến tứ thơ gập ghềnh (nhưng gây nhiều
hứng thú) hơn bài “A Word is Dead”.
5/ Sức gợi: Sức gợi cực mạnh, “tầm bắn xa”, đòi hỏi
nơi người đọc kiến thức rộng, trí tưởng tượng phong phú, khả năng liên tưởng mạnh
mẽ, để tìm gặp, nhận biết tứ thơ.
6/ Cảm xúc tầng 1 (từ câu chữ) và tầng 2 (từ bố cục chặt
chẽ) rất mạnh, tạo khoái cảm cao độ cho độc giả khi “bắt” được tứ thơ.
7/ Cảm xúc tầng 3 (từ trạng thái xao động tâm hồn của
tác giả) không có. Tác giả quá tỉnh táo khi làm thơ. Thơ toàn lý trí.
8/ Người thưởng thức thơ đương đại đã nâng loại thơ
này lên hạng “thơ trí tuệ” với ý nể trọng. Chính Emily Dickinson đã ưu ái gọi
chúng là Những Chiếc Lông Vũ, có khả năng chắp cánh cho tâm hồn người đọc bay
cao, bay xa. Tuy nhiên, nếu nói đến chữ “tình” và “chất thơ” – hai thành tố
(tuy hai mà một) quý giá nhất của thi ca – thì “thơ trí tuệ” không có.
So
Sánh Với Hai Bài Thơ Việt
1/
Cánh Đồng
Sau
ba năm chung thủy
Với
người chồng đi xa
Chị
đã thất tiết một cách lạ kỳ
Với
người đàn ông xấu xí
Già
hơn chị rất nhiều
Trong
một buổi chiều bão tố
Khi
chúng tôi đến đó
Người
đàn ông đã đi rồi
Chỉ
còn lại trên đồng lúa
Vết
xước của dĩa bay mà thôi (6)
(Nguyễn Đức Tùng)
a/ So với A
Word is Dead: Cánh Đồng có hai điểm hơn hẳn. Một, tứ thơ “siêu” hơn, nhân bản
hơn. Hai, “đường vòng nghệ thuật” dẫn đến tứ thơ là cả một câu chuyện, mặc dù bịa
đặt, nhưng có tình tiết hấp dẫn khiến độc giả đọc khoái hơn, cảm xúc tầng 2 mạnh
hơn nhiều.
b/ So với
An Hour is a Sea: Cánh Đồng hơn hẳn về tứ thơ. “Đường vòng nghệ thuật” của hai
bài thơ có sức hấp dẫn ngang nhau.
Cả 3 bài đều là sản phẩm của lý trí, dù tâm đối cảnh
nhưng không có cảm xúc tầng 3, không có chữ “tình” và “chất thơ”
2/
Sông Lấp
Sông
xưa rày đã nên đồng
Chỗ
làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Vẳng
nghe tiếng ếch bên tai
Giật
mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. (7)
(Trần Tế Xương)
a/ So với A
Word is Dead:
Một, tứ thơ tạm coi là đồng hạng. Hai, “đường vòng nghệ
thuật” dẫn đến tứ thơ của Sông Lấp tươi mát, sống động hơn; từ tiếng ếch dẫn đến
tiếng gọi đò, từ tiếng gọi đò gợi nhớ đến con sông xưa đã bị lấp, từ Sông Lấp
nhớ đến nền Nho Học đang lụi tàn. Cảm xúc tầng 2 của Sông Lấp mạnh hơn gấp bội.
b/ So với
An Hour is a Sea:
Một, tứ thơ tạm coi là đồng hạng. Hai, “đường vòng nghệ
thuật” dẫn đến tứ thơ của Sông Lấp tươi mát, sống động hơn, cảm xúc tầng 2 mạnh
hơn.
Đặc biệt, Sông Lấp hơn hẳn hai bài thơ của Emily
Dickinson về chữ “tình” và “chất thơ”. Trần Tế Xương viết Sông Lấp lúc tâm hồn
xao động, nỗi nhớ thương, tiếc nuối dâng tràn, cảm xúc tầng 3 đã xuất hiện
nhưng do bài thơ ngắn, chưa đủ “đất” để tạo cao trào nên chưa có hồn thơ.
Cũng cần nói thêm là khi chọn thơ của Emily Dickinson
để giới thiệu tôi đã cố ý chọn những bài thật đơn giản (không phải là những bài
hay nhất) để khi chuyển ngữ độc giả có thể tiếp cận với tứ thơ tương đối dễ
dàng.
Hơn nữa, Trần Tế Xương và Nguyễn Đức Tùng - nhờ sinh
sau đẻ muộn - được hưởng lợi thế quá lớn từ sự tiến bộ của thời đại về văn
chương nói chung và thi ca nói riêng - nên thơ của hai ông có hơi nổi trội chút
ít. Xin đừng dựa vào đó để phân định “tài thơ” của các thi sĩ.
Thơ
Trí Tuệ Không Khéo Sẽ Thành “Cây Dị Chủng Trong Vườn Thơ”
Mấy tuần trước, để “thăm dò dư luận” cho bài viết này
tôi đã đăng trên FB một bài (trong Một Bó Lông Vũ) của Emily Dickinson.
To Wait an Hour is Long
To
wait an Hour - is long -
If
Love be just beyond -
To
wait Eternity - is short -
If
Love reward the end -
(Emily Dickinson)
Chờ
một giờ là dài
Nếu
tình yêu ngoài tầm tay với
chờ
suốt kiếp là ngắn
Nếu
phần thưởng tình yêu ở cuối đường
Một bạn đọc thân quen, học vấn cao, yêu thích thơ và
cũng làm thơ, viết một bình luận:
“Đơn
giản như đang giỡn vậy”
Và tôi đã trả lời:
Tiếc rằng “bài thơ” của Emily Dickinson - một nhà thơ
lớn của nước Mỹ - lại toàn lý trí, chẳng có chữ "tình" và "chất
thơ".
Nếu nói rõ ngọn ngành thì trong To Wait an Hour is
Long tâm của tác giả chưa đối cảnh, cái tôi riêng tư chưa xuất hiện, “tứ thơ”
chỉ ở dạng “kiến thức”, nên chưa thể gọi là thơ.
Dưới đây là một bài khác – nói về cuộc nội chiến của Mỹ
The First We Knew of Him
was Death
The
first We knew of Him was Death -
The
second - was - Renown -
Except
the first had justified
The
second had not been.
Đầu
tiên chúng ta biết về Anh là Cái Chết
Thứ
hai là Danh Thơm
Ngoại
trừ điều đầu tiên đã được lý giải (đã là sự thật)
Điều
thứ hai thì chưa
(“Anh” là người lính ở cả hai phe
trong cuộc nội chiến)
Trong chiến tranh, người lính ở phe nào cũng được lãnh
đạo phe mình tặng cho hai chữ “chính nghĩa” để hết lòng chiến đấu, sẵn sàng lao
vào chỗ chết. Chết vì “chính nghĩa” sẽ để lại Danh Thơm. Theo Emily Dickinson
thì chỉ có “Cái Chết” là rõ ràng, là thật, còn Danh Thơm chỉ là phù phiếm, giả
tạo (được “đặt ra” để đẩy con người vào chỗ chết)
Ý tưởng của bài thơ rất hay (phản chiến một cách sâu sắc,
ý nhị), cách diễn đạt rất văn chương và rất khéo. Tuy nhiên, nó hoàn toàn là sản
phẩm của lý trí, không có “tâm đối cảnh”, không phải là thơ.
Vâng, Một Bó Lông Vũ - Tuyển Tập 50 Bài Thơ Ngắn Của
Emily Dickinson có nhiều “bài thơ” như thế. Những bài khác, mặc dù tâm đã đối cảnh,
cái tôi riêng tư đã có mặt, đã là thơ, nhưng vì tác giả quá chú trọng cái đẹp của
ngôn ngữ, ý tưởng và đường vòng nghệ thuật của tứ thơ nên rất ít cảm xúc.
Thú thật, để viết bài này, ngoài 50 bài ngắn trong tuyển
tập Một Bó Lông Vũ của Emily Dickinson tôi chỉ đọc thêm 10 bài (do Nuala
O’Connor tuyển lựa) được cho là hay nhất của bà (8) và đọc (lướt) khoảng 50 bài
thơ khác (trong tổng số 1775 bài). Tuy nhiên, lý trí hiện diện trong thơ của bà
quá rõ nét nên tôi có thể khá tự tin khi đưa ra nhận xét như trên.
Thơ
Trí Tuệ Đương Đại Của Việt Nam Cũng Thế
Không phải làm thơ ở giữa thế kỷ 19 như Emily
Dickinson mới mắc phải lỗi “làm thơ hóa ra viết vè” như trên. Một số không ít
nhà thơ đương đại Việt Nam cũng sản xuất những “cây dị chủng trong vườn thơ”
tương tự như vậy.
Trang web thivien.net có 225 bài thơ của nhà thơ Nguyễn
Vũ Tiềm, trong đó có khá nhiều “bài thơ” chỉ có 2 câu. Tôi chọn 2 bài để giới
thiệu với bạn đọc:
1/
Ban
tình yêu, việc của Trời
Giữ
tình yêu, việc của người, khó thay
Đây là nhận xét của tác giả về việc thủ đắc và gìn giữ
tình yêu của con người, hoàn toàn là sản phẩm của lý trí. Ở đây không có cảnh
thơ và tâm hồn tác giả vẫn còn nằm ngủ ở một chỗ bí mật nào đó, chưa xuất hiện.
2/
Giai
nhân son phấn thì sang
Văn
chương son phấn lại càng già nua
Nhận xét của tác giả về việc làm đẹp cho văn chương một
cách giả tạo, bề ngoài. Đây cũng chỉ là sản phẩm của lý trí, không phải thơ.
https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-V%C5%A9-Ti%E1%BB%81m/author-y-8FU-bxva8gLBdrnIEqeA
Hoàng Vũ Thuật cũng có 5 “bài thơ” ngắn về cái bóng. Ở
đây tôi xin trích dẫn 2 bài.
1/
Khi
hai người yêu nhau
Họ
chỉ còn một bóng
2/
Đừng
giận dỗi
Xem
chừng bóng vỡ làm đôi
https://www.thivien.net/Ho%C3%A0ng-V%C5%A9-Thu%E1%BA%ADt/author-iS-sj4WNv5L8YQ6cikxqEQ
Mỗi bài chỉ là một phát biểu, toàn lý trí, không có
tâm đối cảnh nên không phải là thơ.
Thêm vào đó còn có Em Còn Trẻ Và Em Không Thể Biết
(Nguyễn Đức Tùng), Đồng Dao Cho Người Lớn (Nguyễn Trọng Tạo), Trò Chơi Của Ảo
Giác (Nguyễn Quang Thiều) nhưng vì là những bài dài nên tôi để ở phần CHÚ THÍCH
(9). Ba bài này tuy đông quân hơn, bài binh bố trận công phu hơn, nhưng chỉ
toàn lý trí, tâm chưa đối cảnh, cái tôi riêng tư của tác giả chưa xuất hiện nên
chưa phải là thơ.
Đặc
Tính Của Thơ Trí Tuệ
Mang danh là thơ trí tuệ thì dù có là Một Bó Lông Vũ của
Emily Dickinson hay “những đột phá mới lạ” của những nhà thơ đương đại Việt Nam
cũng đều có những đặc tính sau đây:
1/ Đậm chất trí tuệ: Ngôn ngữ chắt lọc, ý tưởng cao
sang, độc giả cần một trình độ kiến thức khá cao để có thể hiểu và “thấy” cái
hay, cái đẹp của bài thơ.
2/ Thường có biện pháp tu từ để có “đường vòng nghệ
thuật dẫn đến tứ thơ” mới lạ, độc đáo, tạo khoái cảm mạnh mẽ cho độc giả “bắt”
được tứ thơ.
3/ Thường được đem ra tán tụng, bình phẩm trên các diễn
đàn văn học, trong các buổi họp mặt quy tụ những “tao nhân mặc khách”.
4/ Viết không khéo dễ thành vè hoặc “cây dị chủng
trong vườn thơ”
5/ Dù có tâm đối cảnh, đã là thơ nhưng là thứ thơ khô
cứng, ít chất tình.
Kết
Luận
Nếu cho rằng Bến Bờ Thi Ca là nơi tụ hội những bài thơ
có kỹ thuật thơ vững vàng, được viết trong lúc thi sĩ “lạc thần trí” (cảm xúc
sôi lên phủ mờ lý trí), lời thơ là tiếng lòng chân thật của thi sĩ, thì thơ trí
tuệ - do thấm đẫm lý trí – nên trong cuộc chạy đua về Bến thường ở phía sau và
không thể nào đến đích.
Phạm
Đức Nhì
04/2020
CHÚ THÍCH:
1/
“Emily Dickinson is one of America’s greatest and most
original poets of all time. She took definition as her province and challenged
the existing definitions of poetry and the poet’s work. Like writers such as
Ralph Waldo Emerson, Henry David Thoreau, and Walt Whitman, she experimented
with expression in order to free it from conventional restraints.”
https://www.poetryfoundation.org/poets/emily-dickinson
2/
A Freight of Feathers – 50 Brief Poems by Emily
Dickinson
(Trang 1, dòng 16)
https://briefpoems.wordpress.com/tag/emily-dickinson/
3/
Theo Wikipedia (https://en.wikipedia.org/wiki/Emily_Dickinson)
thì
"The Emily
Dickinson Museum indicates only one letter and ten poems were published before
her death".
Viện bảo tàng Emily Dickinson cho biết chỉ có một lá
thư và 10 bài thơ được xuất bản trước khi bà chết.
4/
Tác giả không đặt tựa nên câu đầu tiên được lấy làm tựa
cho bài thơ
5/
https://www.edickinson.org/editions/1/image_sets/236634
6/
Cánh Đồng - Một Bài Thơ Lạ, Phạm Đức Nhì,
phamnhibinhtho.blogspot.com
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/12/canh-ong-mot-bai-tho-la.html
7/
Sông Lấp - Một Bài Thơ Toàn Bích, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/12/canh-ong-mot-bai-tho-la.html
8/
Mười bài thơ hay nhất của Emily Dickinson:
1. "I
taste a liquor never brewed"
2. "Success is counted sweetest"
3. "Wild nights - Wild nights!"
4. "I
felt a Funeral, in my Brain"
5. "I'm
Nobody! Who are you?"
6. "'Hope'
is the thing with feathers"
7. "A Bird, came down the Walk"
8.
"Because I could not stop for Death"
9. "My
Life had stood - a Loaded Gun"
10. "Tell
all the truth but tell it slant"
https://www.publishersweekly.com/pw/by-topic/industry-news/tip-sheet/article/67591-the-10-best-emily-dickinson-poems.html
9/
EM CÒN TRẺ VÀ EM KHÔNG THỂ BIẾT
Em còn trẻ và em không thể biết
Người ta sống lại khi đã chết
Những người yêu nhau thường cách biệt
Những người ghét nhau ở bên nhau
Em còn trẻ và em không thể biết
Những cây cối bên đường cũng khổ đau
Khi chúng đứng một mình trong gió rét
Hay khi chúng chụm đầu chen chúc nhau
Em còn trẻ và em không thể biết
Lúc nào nên kết thúc lúc nào nên bắt đầu
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2018/03/em-con-tre-va-em-khong-biet-cua-nguyen.html
ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN
Có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi
có con người sống mà như qua đời
có câu trả lời biến thành câu hỏi
có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới
có cha có mẹ có trẻ mồ côi
có ông trăng tròn nào phải mâm xôi
có cả đất trời mà không nhà ở
có vui nho nhỏ có buồn mênh mông
mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió
có thương có nhớ có khóc có cười
có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi.
Nguyễn Trọng Tạo - 1992
https://phamnhibinhtho.blogspot.com/2018/07/ve-bai-tho-ong-dao-cho-nguoi-lon.html
TRÒ CHƠI CỦA ẢO GIÁC
Không. Bàn tay chúng ta chuyển động. Không. Cái ly
chuyển động
Không. Rượu chuyển động. Không. Đôi chân chúng ta chuyển
động .Không.
Con tàu chuyển động. Không. Nhà ga chuyển động
Không. Thành phố chuyển động. Không. Con cá bơi
Không. Nước bơi. Không. Dòng sông bơi .Không.
Con chim bay. Không. Cái cây bay. Không. Bầu trời bay
Không. Tất cả không.Chỉ cái chết chuyển động
Và mang theo chúng ta.
(Nguyễn Quang Thiều, thivien.net)
https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-Quang-Thi%E1%BB%81u/Tr%C3%B2-ch%C6%A1i-c%E1%BB%A7a-%E1%BA%A3o-gi%C3%A1c/poem-3ysgOJNDdK1omRDpL6_TRQ
THAM KHẢO:
https://en.wikipedia.org/wiki/Emily_Dickinson
http://academic.brooklyn.cuny.edu/english/melani/cs6/dickinson.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét