BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC
Hiển thị các bài đăng có nhãn BÙI GIÁNG. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn BÙI GIÁNG. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 2 tháng 10, 2025

NGƯỜI ĐI ĐÂU – Thơ Bùi Giáng




 
Bàn chân bước người đi về một thuở
Lá phân vân bờ bến cát sương rung
Trời khuya khoắt phiêu du trăng bỡ ngỡ
Người đi đâu sông nước lạnh vô cùng
 
Bóng trắng xa bay về em có thấy
Cuối phương ngàn rừng núi mộng trong sương
Giòng sông đục giòng xưa sông sóng giậy
Nghe triền miên nức nở lệ lên đường
 
Một tiếng nói một nụ cười chợt tắt
Hết mấy phen buồn trở lại bên đời
Đồng ruộng cũ màu trôi trong cỏ nhặt
Dưới bình minh rạ xám gốc trơ phơi
 
Trời vi vút én liệng vòng hớt hải
Đi đi em nguồn giậy mộng chiêm bao
Về thao thức canh chầy tìm trở lại
Bốn chân trời người đứng ở nơi nao
 
Màu con mắt bên màu xuân xiêu đổ
Ở bên kia nhìn trở lại bên này
Gió lay lắt bốn phương về dồn tụ
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay...
 
 Bùi Giáng

(Theo Trong Từng Câu Chữ)

Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2025

BÙI GIÁNG, GÁI MỘT CON TRÔNG MÒN CON MẮT - Trần Hoàng Vy


Bùi Giáng và Thu Trang

Trong bài thơ Mắt buồn in trong tập Mưa nguồn xuất bản tại Sài Gòn năm 1962, có 2 câu thơ kết đã gây nhiều tranh cãi trong giới văn nghệ sĩ của miền Nam trước 1975 và cả đến bây giờ là: “Bây giờ riêng đối diện tôi/ Còn hai con mắt khóc người một con”.
Người ta thắc mắc với hình ảnh “Còn hai con mắt khóc người một con” là như thế nào? Điều đó có hàm ý gì và ẩn nghĩa ra sao? Có rất nhiều giả thuyết và giai thoại được đem ra giải thích, song có vẽ như chưa thật sự thuyết phục, trừ khi đấy là lời thú nhận từ chính bản thân Trung niên thi sĩ, nếu ngài… sống dậy!

Thứ Tư, 10 tháng 9, 2025

NGUYÊN VĂN HAI CÂU THƠ CỦA BÙI GIÁNG – Dũng Hoàng

Nhân có một người hỏi Bùi Giáng viết:
“dạ thưa (1) bây giờ / vẫn còn (2) bên bờ (3)”...

Thì:
(1) là "xứ Huế" hay "phố Huế"?
(2) "núi Ngự" hay "núi ngự?"
(3) "sông Hương" hay "sông hương"?
Xin trình làng nguyên văn bài thơ của thi sĩ đăng trên tạp chí Tư Tưởng, số 1, ngày 15 tháng 3 năm 1971, trang 49.


                                                                                      Dũng Hoàng

Chủ Nhật, 13 tháng 7, 2025

KỶ NIỆM VỚI BÙI GIÁNG - Trinh Anh Khoi

Bùi Giáng là người có biệt tài, hẳn rồi. Nhưng tài của ông, không chỉ trong thi ca, và cái "cuồng" của ông, không chỉ trong cõi người, đã là những chi tiết không cần nhìn ngắm tách biệt. Bài viết của nhà văn Mai Thảo.
Loạt bài Đi Vay Người Có Chữ

Bài viết 3: Kỷ Niệm Với Bùi Giáng

Bùi Giáng rong chơi chân đất cùng nhà thơ Lê Minh Quốc, người vẫn luôn tự hào rằng mình là người đàn ông đẹp trai nhất thế giới!
 
Nhiều buổi chiều Sài Gòn, tôi (Mai Thảo - TAK chú thích) chẳng còn có thể nhớ đích xác vào những năm nào, đâu như năm 1962, đâu như năm 1965 (Nếu sai, nhờ hai anh Cung Tiến, Phạm Công Thiện nhớ lại dùm cho), tôi thường được mời tới những họp mặt ăn nhậu trên căn lầu ngăn nắp, thoáng mát của thầy Thanh Tuệ ở đường Lý Thái Tổ. Mỗi họp mặt với Thanh Tuệ, hồi đó là giám đốc của nhà xuất bản An Tiêm và còn là nhà sư trẻ tươi tắn chưa cởi áo hồi tục, thường vì một cuốn sách. Một cuốn sách mới, vừa in xong chưa ráo mực. Và trước khi gửi sách vào nắng mưa đời, họp mặt An Tiêm với thân hữu là một tiệc rượu tác thành cho sách.
 

Thứ Ba, 20 tháng 5, 2025

BÙI GIÁNG VÀ “LỜI VĨNH BIỆT” – Tran Ho Dung


Nhà thơ Bùi Giáng qua nét vẽ của họa sĩ Trương Đình Uyên,

Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 tại làng Thanh Châu, xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, là con thứ của ông Bùi Thuyên và bà vợ thứ hai là bà Huỳnh Thị Kiền nên được gọi là Sáu Giáng.
 

Thứ Hai, 21 tháng 4, 2025

BÙI GIÁNG VÀ NÀNG HOA HẬU MỘT CON


Ảnh: Nhà thơ Bùi Giáng và hoa hậu Công Thị Nghĩa
 
Bóng mây trời cũ hao mòn
Chiêm bao náo động riêng còn hai tay

Bùi Giáng là một hiện tượng thơ ca đặc biệt của Việt Nam. Trong di sản văn chương ông để lại cho hậu thế có những bài thơ, câu thơ lạ lùng, gợi lên nhiều suy nghĩ.

"Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con"

Đọc câu thơ trên, rất nhiều người nghĩ rằng đây là một "hiện tượng lạ", đôi mắt của ai đó đang làm hai việc khác nhau. Một con mắt thì khóc và con mắt còn lại không biết đang làm gì?

Tứ thơ này cũng đã được nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hiểu theo cách của ông và viết thành nhạc "Con mắt còn lại":

"Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người
Con mắt còn lại nhìn một thành hai
Nhìn em yêu thương, nhìn em thú dữ..."

Có thể hiểu nhạc của Trịnh Công Sơn là một sự ngẫu hứng dựa trên câu chữ chứ hoàn toàn không liên quan đến ý nghĩa thật trong câu thơ của cụ Bùi Giáng. Trung niên thi sĩ Bùi Giáng đã khóc một cách rất nghiêm túc, khóc bằng cả hai con mắt, khóc cho một đối tượng, một con người cụ thể đó là người phụ nữ đã có MỘT ĐỨA CON.

Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một (ĐỨA) con.

"Người một con" trong câu thơ của cụ Bùi Giáng là hoa hậu đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa năm (1955-1956) - bà Công Thị Nghĩa, tức hoa hậu Thu Trang. Bà Nghĩa yêu một ông đạo diễn có tên là T.N.H và có con với ông. Thế nhưng sau đó bà biết này ông này đã có vợ con nhưng giấu và lừa dối bà.

Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2024

TA CỨ TƯỞNG TRẦN GIAN LÀ CÕI THẬT - Thơ Bùi Giáng


   


TA CỨ TƯỞNG 
TRẦN GIAN LÀ CÕI THẬT
 
Ta cứ tưởng trần gian là cõi thật
Thế cho nên tất bật đến bây giờ!
Ta cứ ngỡ xuống trần chỉ một chốc
Nào ngờ đâu ở mãi đến hôm nay!
 
Bạn thân ơi! Có bao giờ bạn nghĩ
Cuộc đời này chỉ tạm bợ mà thôi
Anh và tôi giàu sang hay nghèo khổ
Khi trở về cát bụi cũng trắng tay.
 
Cuộc đời ta phù du như cát bụi
Sống hôm nay và đâu biết ngày mai?
Dù đời ta có dài hay ngắn ngủi
Rồi cũng về với cát bụi mà thôi.
 
Thì người ơi! Xin đừng ganh đừng ghét
Ðừng hận thù tranh chấp với một ai
Hãy vui sống với tháng ngày ta có
Giữ cho nhau những giây phút tươi vui.
 
Khi ra đi cũng không còn nuối tiếc
Vì đời ta đã sống trọn kiếp người
Với tất cả tấm lòng thành thương mến
Ðến mọi người xa lạ cũng như quen.
 
Ta là Cát ta sẽ về với Bụi
Trả trần gian những cay đắng muộn phiền
Hồn ta sẽ về nơi cao xanh ấy
Không còn buồn lo lắng chốn trần ai!
 
                                          Bùi Giáng

Thứ Năm, 12 tháng 9, 2024

MÙA THU – APOLLINAIRE – BÙI GIÁNG – PHẠM DUY - HOA THẠCH THẢO - La Thụy sưu tầm và biên tập


                 

Sắc màu thu đã gieo nhiều cảm hứng cho hồn thơ tứ nhạc. Nhiều bài thơ, bản nhạc viết về THU dù đã trải qua bao năm tháng phôi pha vẫn in đậm nét trong lòng người thưởng lãm. Là người yêu nhạc (loại nhạc có air “bán cổ điển”), ai mà không thuộc các bản “Buồn tàn thu” của Văn Cao, “Giọt mưa thu”“Đêm thu”, “Con thuyền không bến”… của Đặng Thế Phong , “Thu quyến rũ” của Đoàn Chuẩn Từ Linh , “Thu vàng” của Cung Tiến, “Em ra đi mùa thu” của Phạm Trọng Cầu, “Chiếc lá thu phai” của Trịnh Công Sơn , “Mùa thu Paris” của Phạm Duy, “Thu hát cho người” của Vũ Đức Sao Biển, “Thu ca” của Phạm Mạnh Cương v.v… Đặc biệt, bản “Mùa thu Chết” của Phạm Duy, bản nhạc hay nhưng có nhiều thắc mắc về xuất xứ của ca từ.
     
Bản nhạc này lấy ý của bài thơ “L’ADIEU” của Guillaume Apollinaire, điều này có lẽ được nhiều người chấp nhận. Tuy nhiên lời Việt của bản nhạc “Mùa thu chết” thì không ít ý kiến cho rằng là do chính thi sĩ Bùi Giáng chuyển ngữ từ nguyên tác tiếng Pháp bài “L’ADIEU” nói trên, Phạm Duy chỉ phổ nhạc mà thôi. Để nhìn nhận cho khách quan, ta thử đối chiếu nguyên tác với bản dịch của Bùi Giáng và lời nhạc của Phạm Duy.
 
 a/ Bài thơ của Apollinaire:
 
           L'ADIEU
 
           J'ai cueilli ce brin de bruyère
           L'automne est morte souviens-t'en
           Nous ne nous verrons plus sur terre
           Odeur du temps brin de bruyère
           Et souviens-toi que je t'attends
 
           GUILLAUME APOLLINAIRE
 
b/Bản dịch của thi sĩ Bùi Giáng :
 
           LỜI VĨNH BIỆT
 
           Ta ngắt đi một cành hoa thạch thảo (*)
           Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
           Chúng ta sẽ không tương phùng được nữa
           Mộng trùng lai không có ở trên đời
           Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
           Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó...
 
                                                   BÙI GIÁNG
   (*) Câu này còn có dị bản:
 
          Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
 
c/ Ca từ trong bản “Mùa thu chết” của Nhạc sĩ Phạm Duy:
 
           MÙA THU CHẾT
 
           Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
           Em nhớ cho Mùa Thu đã chết rồi !
           Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
           Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
           Mùa Thu đã chết, đã chết rồi. Em nhớ cho !
           Em nhớ cho,
           Đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa!
           Trên cõi đời này, trên cõi đời này
           Từ nay mãi mãi không thấy nhau
           Từ nay mãi mãi không thấy nhau...
           Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
           Em nhớ cho Mùa Thu đã chết rồi !
           Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
           Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em.
           Vẫn chờ em, vẫn chờ em
                 Vẫn chờ....
                                    Vẫn chờ... đợi em !
 
                                            PHẠM DUY    

Thứ Ba, 9 tháng 7, 2024

BÙI GIÁNG “NGƯỜI VIẾT SÁCH VỚI TỐC ĐỘ KINH HỒN” - Lê Hồng Thiện

Thi sĩ Bùi Giáng (1926-1998), quê Quảng Nam. Suốt hơn bốn thập kỷ sống cuộc đời giang hồ, chân đất túi vải, rong chơi mọi nẻo phố đường quê, nghêu ngao ca hát, làm thơ, vẽ tranh, ứng xử với đời như một thiên tài và cả như một... kẻ khùng!


Có lần, Bùi Giáng tự họa chân dung mình, qua mấy nét:
 
"Nhe răng cười trong bóng tối
Không bao giờ bắt chuồn chuồn, mà cứ bảo rằng mình luôn bắt chuồn chuồn
Không thiết chi đọc sách, mà vẫn cặm cụi đọc sách hoài..."
 
Ông được mệnh danh là "Người viết sách với tốc độ kinh hồn" và suốt đời cặm cụi đọc sách hoài. Đúng thế, đời Bùi Giáng đã lắm phen bị sách vở "thôi miên". Nghe kể lại, vào thời trên đường Đặng Thị Nhu còn có một chợ sách cũ, ông hay lang thang ở đó, xem sách và uống cà phê.
 

Thứ Sáu, 26 tháng 1, 2024

BÙI GIÁNG, “XIN CHÀO NHAU GIỮA CON ĐƯỜNG” – Phạm Hiền Mây



Đọc Bùi Giáng càng nhiều, tôi càng nhận ra, trong cõi đời ông, tức, cõi thơ ông, hoặc, chẳng gì quan trọng, hoặc, hết sức thiêng liêng, rất đáng để thờ phượng, rất đáng để dấu yêu.
Đọc Bùi Giáng càng nhiều, tôi càng nhận ra, thơ nói chung và thơ Bùi Giáng nói riêng, chỉ có thể cảm, chớ rất khó để luận bàn, phân tích. Thậm chí, hiểu thôi, cũng đã là việc bất khả.
Nói về Bùi Giáng, viết về Bùi Giáng, là quyền của người ta, chớ giờ đây, ông Bùi Giáng, ổng có gật đầu thừa nhận, hay lắc đầu phản kháng gì nữa đâu. Ổng đã về hẳn cõi của ổng rồi, một miền xa lăng lắc, chỉ khói và sương.
Mưa Nguồn là tập thơ đầu tiên của Bùi Giáng, xuất bản năm một ngàn chín trăm sáu mươi hai và có cả thảy một trăm bốn mươi bài. Những bài này, đã lần lượt được viết, bắt đầu từ những năm một ngàn chín trăm bốn mươi tám.
Trong một trăm bốn mươi bài ấy, tôi thích nhứt là hai bài: Mắt Buồn Chào Nguyên Xuân.
 
MẮT BUỒN
Dặm khuya ngắt tạnh mù khơi
(Nguyễn Du)
 
Bóng mây trời cũ hao mòn
Chiêm bao náo động riêng còn hai tay
Tấm thân với mảnh hình hài
Tấm thân thể với canh dài bão giông
Cá khe nước cõng lên đồng
Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một giêng
Tạ từ tháng chạp quay nghiêng
 m trang sử lịch thu triền miên trôi
Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ người yêu bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con.
 
Câu “dặm khuya ngắt tạnh mù khơi” mà Bùi Giáng mượn từ truyện Kiều của Nguyễn Du để làm lời dẫn cho Mắt Buồn, được trích ở đoạn, Kiều từ biệt mẹ cha, cùng Mã Giám Sinh về Lâm Truy: dặm khuya ngắt tạnh mù khơi / thấy trăng mà thẹn những lời non sông. Đêm ấy, nàng ngước nhìn trăng và nhớ về cái đêm mà nàng cùng với Kim Trọng “vầng trăng vằng vặc giữa trời”, tự tình, thề nguyền hẹn ước, bằng những lời vàng đá, sắt son.
Đưa vào, thì chắc phải có ý nghĩa gì rồi, chớ chẳng thể là không.
Có thể đó là một ngậm ngùi nhắc nhở. Cũng có thể đó là một nhẹ nhàng trách than. Là tôi đoán thế thôi. Đọc thơ, rồi dùng trí liên tưởng của mình mà đoán này đoán nọ. Hên thì trúng. Nghĩ quá cạn cợt hoặc nghĩ quá xa xôi, thì trật. Mà trúng hay trật gì, thì cũng ích chi cho tác giả. Trúng hay trật gì thì giờ này, tác giả cũng có cãi được đâu. Ổng mất rồi, lấy đâu mà đối chứng.

Thứ Năm, 25 tháng 1, 2024

TUỆ SỸ VIẾT VỀ BÙI GIÁNG

Thầy Tuệ Sỹ viết về ông Bùi Giáng trên Giai phẩm Văn - Số đặc biệt về nhà thơ Bùi Giáng, ngày 18.5.1973
 

THI CA VÀ TƯ TƯỞNG
 
Với cái tựa đó, tôi không cốt ý bàn riêng về một tập sách của ông Giáng, viết rải rác về các nhà thơ. Thi ca và Tư tưởng, cái đó muốn được đặt ra trong cách điệu Chung và Riêng, từ một cuộc Hội thoại trong cõi Hằng thể Tịch nhiên, vang dội những âm hưởng Nguyên sơ hiện hình ra giữa dòng Lịch sử, và vang dội với một câu hỏi ngân dài bất tận: “Và để làm gì, thi nhân trong thời buổi điêu linh thống khổ?” (M. Heidegger, Wozu Dichter; Sương Bình Nguyên của Bùi Giáng). Câu hỏi đột ngột đứng lên giữa lòng Tư tưởng, như để đánh dấu chỗ sơn cùng lộ tuyệt trong bước đường phiêu lưu khốc liệt của Lịch sử, và cũng như là nỗi Ưu tư (die Sorge) của Tại thể (Dasein) đang hoài vọng những phương trời Viễn mộng Ban sơ trên bước đường Lữ thứ của Thi ca:
 
Ngõ ban sơ hạnh ngân dài
Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua
 
Nơi đó, nơi “Ngõ ban sơ” đó, còn là nơi của một cõi miền Hội thoại trong cách điệu tài hoa, mà Thiên nhiên đã phơi mở tất cả xiêm y lồng lộng của Tuế nguyệt phiêu bồng, đã giũ áo mù sa, đã trút quần phong nhụy, và kỳ cùng, tà huy lãng đãng bay cao cùng với Lời Thơ vọng về Hằng thể:
 
Được lời như cởi tấm lòng
Giở bom đạn với phi thuyền trao tay

Chủ Nhật, 10 tháng 12, 2023

BÙI GIÁNG BÌNH THƠ “KẺ Ở” VÀ SỰ CẦN THIẾT TRẢ LẠI TÊN TÁC GIẢ CHO “CHÍNH CHỦ” BÀI THƠ... - Bùi Giáng, Vân Long


Quang Dũng thời Tây Tiến

Trong tác phẩm “Đi vào cõi thơ”, Bùi Giáng đã viết về các nhà thơ, nhà văn: Tuệ Sỹ, Nguyễn Du, Nguyễn Trải, Chu Mạnh Trinh, Trần Trọng Kim, Huy Cận, Xuân Diệu, Hồ Xuân Hương, Rimbeaud,  Apollinaire, Chế Lan Viên, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Nhượng Tống, Nhất Hạnh, Trí Hải, Nguyễn Thị Hoàng, Hoài Khanh, Kiên Giang,Quang Dũng .v.v...
Các bài bình thơ các tác giả nêu trên được Bùi Giáng viết như tùy bút văn học. Đọc những tùy bút này, ta nhìn thấy tâm hồn ông mênh mang ảo diệu, thăm thẳm như bầu trời. Ông cảm nhận được những điều tinh vi huyền bí nhất của thi ca. Ông đúng là tri âm của các thi văn sĩ.
Chúng tôi xin giới thiệu bài viết của Bùi Giáng về Quang Dũng.
 
“KẺ Ở” là môt bài thơ độc đáo được giới yêu thơ ở miền Nam trước 1975 chép tay và chuyền nhau đọc. Đặc biệt “KẺ Ở” được thi sĩ BÙI GIÁNG viết lời bình và nhạc sĩ CUNG TIẾN phổ nhạc. Do hoàn cảnh chiến tranh, thiếu tư liệu văn học để tham khảo nên thi sĩ BÙI GIÁNG và nhạc sĩ CUNG TIẾN cũng như rất nhiều người cho rằng tác giả bài thơ “KẺ Ở” là QUANG DŨNG. Thực ra, bài thơ đó chính là bài “DẶM VỀ” của nhà thơ NGUYỄN ĐÌNH TIÊN. Dù có chút nhầm lẫn về tác giả bài thơ, nhưng thi sĩ BÙI GIÁNG đã rất tài hoa khi bình thơ - Một cách bình thơ đặc dị “rất Bùi Giáng’. Xin mời đọc!
 
 BÙI GIÁNG BÌNH THƠ: “KẺ Ở”
 
Mai chị về em gửi gì không
Mai chị về nhớ má em hồng
    
Chỉ hai câu đầu đã khiến người tê lạnh. Không có gì cả, không lời nào tha thiết, nhưng đúng như ông Huy Trân nói: “Thơ Quang Dũng ý đã nhiệt thành, cao đẹp, mà lời thơ lại êm ái gợi cảm vô cùng. Nói về thơ nhẹ nhàng, êm dịu, mà đọc tới đâu lâng lâng chết cả lòng đến đấy, thì thi ca hiện đại chỉ có Quang Dũng.”   
Thi ca hiện đại hay thi ca ngàn đời, thi ca Việt Nam hay thi ca thế giới – vâng – cũng chỉ riêng một Quang Dũng thôi.
 
Mai chị về em gửi gì không
Mai chị về nhớ má em hồng
Đường đi không gió lòng sao lạnh
Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong
 
Đó là chỗ sơn cùng thủy tận của ngôn ngữ. Ngôn ngữ thần tiên hiển hiện tinh thể một cách không thấy hình hài máu me đâu cả. Người ta đã bao đời đi tìm cõi huyền nhiệm của ngôn ngữ thơ. Mỗi phen trở về, mỗi phen như bó tay lắc đầu, tuyệt nhiên không biết ăn nói ra sao cả. Đành chỉ nói quanh co. Và biết bao thy sỹ hoằng viễn đã nghĩ rằng, nguyệt rằng, mình sẽ suốt đời không làm một vần thơ nào cả - một phen để hội cái chỗ dị thường trống trải vắng vẻ trong lời man mác thiên tiên kia.
Lại có những nhà tư tưởng như Heidegger, viết bao pho sách lịch kịch nêu bao câu chất vấn u ẩn, đáo cùng vẫn chỉ nhằm mục đích nhiếp dẫn tư tưởng tới chỗ mép bờ bất khả tư nghị của thi ca.
Nerval sau những lần thành tựu cõi miền ngôn ngữ đó, ông bèn lao mình vào cõi ẩn mật vô ngần của một nguồn siêu thực không tiếng không lời Les Chimères.
Apollineire, sau phút dị thường bước lên tột đỉnh đạm nhiên kia, lập thời nhảy lùi làm thơ theo thể thái bông lông tầm phào, bất sá lam hồng tố bạch.
 
Mai chị về em gửi gì không?
 
Câu hỏi cũng lững lờ như lời đáp cũng lửng lơ. Hỏi mà cũng không hỏi, không nói, không ngó, không nhìn nhau …Và chỉ sau khi lên ngựa, chia bào, con người mới để lòng mình bay tỏa khắp đường đi.
 
Đường đi không gió lòng sao lạnh
Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong
 
Tâm sự của người đi, nhưng nhan đề là kẻ ở. Kẻ ở hay người đi cũng một tâm tình ly biệt. Đi giữa không gian, thì cũng như đứng ở trên dâu biển. Lòng sao lạnh? Vì lòng mang chứa tất cả khoảng vắng lạnh? Vì lòng mang chứa tất cả khoảng vắng lạnh không gian… Và tiếng “mong nhớ mong” kia cũng chỉ vọng vào được trong không gian xa hút mà thôi.
Nghĩa là vọng trở lại vào lòng mình. Từ lòng mình toả vào lòng vũ trụ. Lại từ lòng vũ trụ dội lại lòng mình. Đó là cái vòng kỳ ảo của mong nhớ mong. Và mong nhớ mong mênh mông như thế, thì mong nhớ mong là cõi của từ bi tế độ vậy.
 
Quê chị về xa tít dặm xa
 
Vì đó là một quê hương nào riêng biệt nằm tại một bến bờ bỉ ngạn nào vô tức vô thanh, vô biên vô tế.
 
Quê chị về xa tít dặm xa
Rừng thu chiều xao xác canh gà
Hoa rơi khắp lối sương muôn ngả
Ngựa lạc cành hoang qua lướt qua
 
Ngựa lạc? Dẫu ngựa không lạc đường vẫn cứ là lạc nẻo. Nghĩa là: ở trong cõi hư không bao la như thế, thì đâu cũng là lênh đênh, nhưng lênh đênh theo nghĩa vô ngần: trụ vô sở trụ.
Người ngồi trên ngựa cũng lạc ngựa luôn. Hươu trong rừng cùng một cảnh ngộ lạc loài như nhau, lại tam trùng lạc lõng nhau, vì bất ngờ sợ hãi nhau, quay đầu bỏ chạy. Lời thơ lại thêm một chút niêm hoa vi tiếu “theo ngó theo”.
 
Ngựa chị dừng bên thác trong veo
 
Nếu thác đục lầy cho một chút, ắt có phần gần gũi bụi hồng hơn. Nhưng tại sao thác lại trong veo cắc cớ ra như thế? Thì trần gian còn biết đem tâm sự hồng trần ký thác vào đâu? Đó là chỗ đạm nhiên huyền bí lô hỏa thuần thanh vậy. Nó đốt cháy linh hồn bằng một tiếng trong veo. Nhưng đốt cháy mà đâu có bỏng da bỏng thịt. Nó cháy để thăng hoa cho linh hồn về ba la mật, sau một phút linh hồn tạm dừng trong một phen tư lự. Vì dù sao trận giũ áo cũng còn vướng víu với nhân nghĩa nhân tình.
 
Ngựa chị dừng bên thác trong veo
Lòng chị buồn khi nắng qua đèo
Nơi đây lá giạt vương chân ngựa
Hươu chạy quay đầu theo ngó theo
 
Rồi sẽ xin khóc một cơn vô ngần cho trùng sinh trong vĩnh biệt:
 
Rừng đêm nhòa bóng nhớ hoang mang
Ngựa chị dừng bên thác sao vàng
Sao rơi đáy nước vương chưn ngựa
Buồn dâng đôi mi hàng lại hàng
 
Ta lại gián tiếp với một sự tình kỳ dị. Nói ra là buồn dưng đôi mi hàng lại hàng, nhưng có bao giờ mối sâu mênh mông và hầu như vô đối tượng lại tràn ra thành hàng lệ. Nhưng đây là hàng lệ riêng biệt của hư không đi về vui chơi êm đềm với không hư thái thiên nhiên tĩnh tịch. Người ta có thể khóc, nhưng không phải khóc vì một mối đoạn trường riêng tây trong một cảnh ngộ nhất định.
 

BÙI GIÁNG VÀ NI CÔ TRÍ HẢI – Trích trong tác phẩm “Đi vào cõi thơ” của Bùi Giáng


Bùi Giáng qua nét vẽ Đinh Cường
 
Bùi Giáng tự viết về mình:
 
BÙI GIÁNG
 
Nguyễn Du
Phạm Thái
Nét vẽ bút bi của Bùi Giáng 1988
 
Những bài thơ “chuồn chuồn châu chấu” của ông quả thật là có ý nghĩa. Nó bay nhẹ vi vu quả có đúng như là phận mỏng cánh chuồn. Vào những buổi sáng mùa đông lạnh lạnh ở Trung Việt, vào những buổi chiều mùa thu ở Bắc Hà, hình bóng những con chuồn chuồn bay lượn cuối ngõ, đầu xuân, quả thật là tha thướt.
Đôi phen mất cái tiết điệu riêng biệt ấy cũng còn tái hiện trong đôi vần phồn hoa, mặc dù ở chồn phồn hoa không bao giờ có chuồn chuồn bay vòng múa lượn.

Bài thơ “Giữa phố” sau đây là một thí dụ:

Thiên tiên đẹp cũng như người
Ngẫu nhiên kỳ ngộ miệng cười nửa môi
Miền xanh đứng bóng mặt trời
Cõi xanh cung nguyệt cạn lời cảo thơm

Đi qua làn gió xanh rờn
Đi về ở lại còn hơn xanh rì
Phút giây đè nặng như chì
Thoảng qua như mộng không kỳ hạn qua

Chiêm bao nàng ghé lại nhà
Môi cười nửa miệng như là ngẫu nhiên
Nửa môi còn ngậm phi tuyền
Tuyết pha in mặt thần tiên như người.

Tuy nhiên vì Bùi Giáng là chỗ quen biết với tôi nên không tiện bàn luận chi nhiều. Chê thì mất lòng nhau. Mà khen thì mang tiếng “mẹ hát, con vỗ tay”.

Dù sao, bài sau đây cũng nên trích thêm vào tập:

Bóng dương buồn ngủ qua chiều
Qua sông tại hạ toan liều dấn thân
Đường sông bóng đổ cơ trần
Gẫm chông gai ấy ai từng đạp qua

Ghì môi cơn mộng la đà
Tiêu dao suốt cõi mù sa bên rừng
Nửa vời trăng rộng mông lung
Đường hoa nghi hoặc tháp tùng ni cô
 
*
TRÍ HẢI

 
Chân dung Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải

Bùi Giáng viết về ni cô Trí Hải:
 
Trí Hải Ni Cô làm thơ cho trẻ con tập đọc. Đọc mấy bài của Ni Cô, chúng ta có cảm tưởng mình biến thành trẻ bé bỏng, được phép gọi Ni Cô là Mẫu Thân bát ngát.
 
dê mẹ ở hè
nó kêu be he
bé cho nó cỏ
và ba lá tre
*
se sẻ qua đò
cú xo té ngã
quạ ta kẻ cả
chê cú hồ đồ
*
chú quạ bị què
lê ra bờ đê
mổ mè no nê
trở vô ngủ lẹ
*
cú ho sù sụ
quạ qua vỗ về
ru cú ngủ mê
ở kề cổ thụ
*
mơ mơ hồ thu
gió khẽ vi vu
tứ bề ngủ cả
như là mẹ ru
*
gió đi lơ ngơ
gò đá bơ vơ
chả có lá gì
cho gió ru mơ
*
khe ca tỉ tê
mà ru đã ngủ
lá kè ủ rũ
mơ xa gió về
*
gió thở vi vu
nghe xa lá đổ
bò dê đi ở
cỏ mơ sa mù
 
AC
thu về man mác
xơ xác chim vạc
ngơ ngác nai tơ
bơ vơ chú hạc
 
AP
mưa sa gió táp
tiêu điều bò cạp
chó Pháp ngáp dài
nhớ nai Hy-lạp
 
AT
mưa sa hạt mát
giải khát lạc đà
cát vàng bát ngát
bãi xa mờ nhạt
 
ANG
gió đi lang thang
lá vàng mang mang
mình nghe lành lạnh
mùa thu đã sang
 
AY
gió nhẹ nhàng lay
lảo đảo vàng bay
ngày thu biền biệt
đất trời như say
 
ĂNG
băng ngàn tìm trăng
mây mù bủa giăng
như màn the rũ
che mặt ả Hằng
 
ĂM
gió rét căm căm
người đi xa xăm
tháng năm biền biệt
quê nhà đăm đăm
 
ĂP
trắng mây về khắp
núi đồi tăm tắp
gió xa sắp về
mây làm cánh chắp
 
        (Thơ Trí Hải)
                                                                          Bùi Giáng

Nguồn:
http://www.vancong.com/_doku/PDF/BuiGiang_DiVaoCoiTho.pdf