BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC
Hiển thị các bài đăng có nhãn PHAN CHÍNH. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn PHAN CHÍNH. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 2 tháng 3, 2022

THƠ LỤC BÁT PHAN CHÍNH – Tâm Nhiên


Hai nhà thơ Phan Chính và Tâm Nhiên

Trong Đi vào cõi thơ, thi sỹ Bùi Giáng viết: “Chúng ta quen thói ngong ngóng chạy theo đuôi mọi thứ trào lưu, chủ nghĩa, chúng ta tuyệt nhiên không còn giữ một chút tinh thể cỏn con nào cả để thể hội rằng, lục bát Việt Nam là cõi thơ hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu, bốn biển, ba bảy sông hồ…”
 

Thứ Hai, 21 tháng 12, 2020

BÌNH THUẬN, NHIỀU ĐỊA DANH CHỈ CÒN TRONG KÝ ỨC – Phan Chính

 


Trên bản đồ hành chính của tỉnh Bình Thuận hiện nay có nhiều địa danh từng thấm đậm trong ký ức của các thế hệ, đời người đã không còn nữa. Bởi vì ý nghĩa của những địa danh đó như một trang sử lưu dấu chân người trên một vùng đất của chặng đường khai hoang, mở đất.
 

Thứ Năm, 29 tháng 10, 2020

ĐẶC SẢN BIỂN VÀ MÓN NGON BÌNH THUẬN – Phan Chính

 


Trong nhiều bài viết về các loài cá làm nên hương vị ẩm thực nổi tiếng ở Phan Thiết (Bình Thuận), tôi rất thú vị với cố nhà văn Trương Công Lý (1929-2008) qua tập văn Miền quê Bình Thuận (Hội VHNT xuất bản năm 2007). Ông là người con của làng Đức Thắng, Phan Thiết lại từng gắn bó với ngành hải sản từ khi tập kết ra Bắc. Ông thuộc lòng “tính ý”, môi trường sinh sản của từng giống cá ở biển Bình Thuận một cách tường tận, khó ai bì! Và từ đó tôi lại khắc khoải nỗi nhớ về những con cá ngày xưa…   

Thứ Năm, 15 tháng 10, 2020

BÌNH THUẬN TRONG HÀNH TRÌNH MỞ ĐẤT - Phan Chính


          

Có lẽ địa danh Bình Thuận xuất hiện sớm nhất vào năm Đinh Sửu (1697), lúc ấy là một phủ của trấn Thuận Thành, sau khi Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế sai Chưởng cơ Nguyễn Hữu Kính dẹp được nạn loạn vua Chiêm Bà Tranh và chiếm được phần đất cuối cùng của Champa từ Phan Rang đến xứ Chân Lạp. Thời vua Gia Long đặt dinh Bình Thuận, rồi đến Minh Mạng thứ 4 (1823) đặt lại phủ Bình Thuận có 2 huyện An Phước và Hòa Đa. Trong quảng thời gian gần 130 năm đó, Bình Thuận qua nhiều lần thay đổi cấp hành chính dinh, trấn, phủ bao gồm một phần đất của Ninh Thuận, Lâm Đồng và phía nam Tây nguyên.   

Thứ Ba, 6 tháng 10, 2020

CHÙA XƯA KỲ VIÊN TỰ, XÃ TÂN THÀNH, HUYỆN HÀM THUẬN NAM, TỈNH BÌNH THUẬN – Phan Chính

          

            

Theo lịch sử địa phương xã Tân Thành (huyện Hàm Thuận Nam) đây là vùng đất hình thành vào khoảng thập niên 70- 80 thế kỷ 18. Cư dân ban đầu là những người dân phiêu tán từ miền Trung vào trong thời kỳ Gia Long thống lĩnh quyền lực đánh trả nhà Tây Sơn. Đất Tân Thành được coi là nơi ẩn chứa nhiều dấu tích xưa với những câu chuyện huyền thoại khá ly kỳ. 

Chủ Nhật, 13 tháng 9, 2020

BẢN SẮC VIỆT TRONG LỄ HỘI HÒN BÀ– Phan Chính



Lễ “vía Bà”- Hòn Bà, ở thị xã La Gi hàng năm được ngư dân tổ chức vào ngày 23 tháng 3 âm lịch và đã nâng lên tầm lễ hội kể từ năm 2012 khi UBND tỉnh Bình Thuận công nhận là di tích danh thắng cấp tỉnh. Ngày vía này cũng trùng hợp với ngày vía bà Thiên Y A Na ở Nha Trang. Theo cách gọi nửa Việt nửa Chăm từ tên cổ là Yan Pô Inư Nagar (Thiên tức thần trời tức Yan Pô, Y A Na phát âm Inư Nưgar). 

Thứ Ba, 8 tháng 9, 2020

RỪNG LÁ BUÔNG DẤU ẤN MỘT THỜI - Phan Chính


            

Rừng là phải có lá, nhưng với tên gọi Rừng Lá được nhắc đến đã trở thành một địa danh huyền thoại đối với cánh rừng Lá Buông trong thời chiến tranh chống Pháp và Mỹ trên đất Bình Thuận. Con đường quốc lộ 1A từ hướng Phan Thiết (Bình Thuận) vào Sài Gòn sau khi có hiệp định Pa-ri 1973 tương đối thông suốt, nhưng từ cây số 63 (thị trấn Tân Minh - Hàm Tân) đến Ngã ba Ông Đồn (Xuân Lộc) lại gọi tên Rừng Lá. Đồng nghĩa với một địa phận thuộc quyền kiểm soát của lực lượng quân giải phóng. Tính từ Ngã ba Ông Đồn trở ra bắt đầu là căn cứ 1, nếu nói đến những căn cứ lớn thì chỉ có căn cứ 4 thuộc xã Xuân Hòa (Xuân Lộc), căn cứ 5 (sông Giêng - Hàm Tân), căn cứ 6 (sông Dinh - Tân Minh), căn cứ 10 (ngã tư Tân Nghĩa - Sông Phan) và khoảng 2 căn cứ nữa là sát cầu số 37 (Tà Mon - Hàm Thuận Nam)… Có nhiều người không hiểu “căn cứ” là gì nhưng theo cách gọi của hành khách, nhà xe biết ngay địa danh, địa bàn nào. 

Thứ Tư, 26 tháng 8, 2020

CHÂN NÚI TÀ CÚ - Phan Chính



Tại phường Tân Thiện, thị xã La Gi (Bình Thuận) có ngôi chùa Pháp Bửu Đường (còn có tên Linh sơn Pháp bửu tự) trước năm 1959 là phần đất của Sư bà Thích nữ Bổn Đại, cũng là đệ tử của đại sư Thích Vĩnh Thọ thuộc dòng Lâm Tế thứ 40, đã cúng hiến để xây chùa. Vì vậy Linh sơn Trường thọ tự, tức chùa núi Tà Cú và chùa Pháp Bửu đường cùng tổ nghiệp, có mối nhân duyên rất lớn với người dân La Gi theo tín ngưỡng Phật giáo từ xưa.

Thứ Sáu, 24 tháng 7, 2020

VỀ ĐỊA DANH MƯỜNG MÁN HAY MƯƠNG MÁN (BÌNH THUẬN) - Phan Chính





VỀ ĐỊA DANH MƯỜNG MÁN HAY MƯƠNG MÁN
                                                                         Phan Chính

Đó là tên con sông lớn chảy giữa lòng thành phố Phan Thiết với biết bao trang văn, câu thơ, khúc nhạc ngợi ca bất tuyệt thấm đẫm lòng người. Thế nhưng chỉ với một tên gọi Mương Mán/ Mường Mán thôi mà vẫn còn lắm điều chưa hẳn ai cũng dễ dàng chấp nhận. 

Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2020

LA GI ĐẤT CỰC NAM TRUNG BỘ - Phan Chính


            

La Gi trở thành Thị xã từ cuối năm 2005 và nay vừa được nâng lên đô thị loại 3 của tỉnh Bình Thuận. Nếu tính theo địa bàn cũ khi chưa thành lập huyện Hàm Tân (mới) thì La Gi là phần đất duyên hải phía cực nam miền Trung, giáp với Xuyên Mộc, Long Khánh thuộc miền Đông Nam bộ. Địa danh La Gi/ La Di từ xa xưa gắn liền với địa danh hành chính huyện Hàm Tân sau này, đã trên trăm năm.

Chủ Nhật, 12 tháng 7, 2020

TỪ NÚI CẨM KÊ ĐẾN MŨI KÊ GÀ - Phan Chính


               

        TỪ NÚI CẨM KÊ ĐẾN MŨI KÊ GÀ

        Công trình kiến trúc hải đăng Khe Gà tuy ngày nay thuộc xã Tân Thành, huyện Hàm Thuận Nam (Bình Thuận), chỉ cách xa thị xã La Gi khoảng 30 km bờ biển, nhưng có mối quan hệ sâu xa về lịch sử vùng đất và đời sống xã hội, con người La Gi. Đêm đêm ở La Gi vẫn thấy rõ ánh đèn chớp tắt xoay tròn trên ngọn tháp cổ kính này. 


          Từ xưa đã có nhiều bản đồ hàng hải cổ đại Trung Quốc và một số nước phương Tây, với nhiều hình thức ghi chép, hình vẽ tiêu danh về vùng biển Đông Nam Á. Đây cũng là cơ sở rất cần thiết cho hoạt động hàng hải.Tuy nhiên phần lớn đều viết theo thuật ngữ hàng hải bằng chữ Hán rồi dần về sau qua phiên âm, phiên dịch cho nên nhiều địa danh cũ được mô tả không còn đúng trong thực tế hoặc đã được thay thế. Theo bản đồ hàng hải “Đại Nam toàn đồ 1841” qua hải phận Bình Thuận có thể bắt đầu với phía nam vịnh La Loan, từ mũi La Gàn (Tuy Phong) đến mũi Vị Nê/ mũi Nê (tức Mũi Né)… Mũi Né trước đây có nhiều tên gọi theo địa hình như Vị Nê sơn, Vị Nê úc (Úc là Vũng), Vị Chủy (Mũi Vị)- trên bản đồ Taberd người Pháp ghi Mũi Viné, Nê thành Né …

Thứ Sáu, 3 tháng 7, 2020

ĐỒI TRĂNG PHAN THIẾT (CHUYỆN TÌNH HÀN MẶC TỬ) - Phan Chính


           Nhớ về Lầu Ông Hoàng là nhớ những chuyện xưa - Ảnh: huu5189 [Hữu Khoa]


ĐỒI TRĂNG PHAN THIẾT (CHUYỆN TÌNH HÀN MẶC TỬ)

Đứng ở trung tâm thành phố Quy Nhơn có thể nhìn thấy rất rõ dòng chữ “Ghềnh Ráng - Tiên Sa” màu trắng, nổi bật trên nền xanh lá ở lưng núi nằm cuối cung đường bờ biển đẹp. Đây là một khu du lịch có các địa danh Bãi Trứng, Bãi Tiên Sa được ví như một viên ngọc bích giữa biển xanh. 

           Đến với khu du lịch Ghềnh Ráng để tìm hiểu về truyền thuyết bao đời (Ảnh ST)

       Cảnh biển mây trời núi đá hòa quyện càng tăng nét hoang sơ hút hồn của Tiên Sa.

Nhưng với khách phương xa có lòng ngưỡng mộ, yêu mến thi nhân bạc mệnh Hàn Mạc Tử thì lại phải đến nơi mà nhà thơ nằm bệnh rồi từ trần cũng trên ngọn núi có cảnh quan hoang sơ và lặng lẽ này. Bất cứ tài xế taxi hay xe ôm nào khi đưa khách đến đây đều hiếm nói địa chỉ Trại phong - da liễu Quy Hòa mà chỉ nói mộ Hàn Mạc Tử mà thôi. 

                                             Khu mộ thi sĩ Hàn Mạc Tử (Ảnh: ST)

Khu vực này bao gồm cơ sở bệnh viện phong - da liễu do Bộ Thương binh - xã hội quản lý và một “làng bệnh phong” được hình thành từ năm 1929, cách đây 90 năm do một linh mục người Pháp làm nơi tập trung chữa trị những người mắc chứng bệnh phong gần như bị cách ly với cộng đồng vì thời ấy do định kiến nặng nề, ruồng rẫy của xã hội… Nay làng phong này có trên 350 hộ gia đình sống dưới những mái nhà riêng và đường sá không khác gì một khu phố nhỏ nhưng đâu đó vẫn lẩn khuất một không khí trầm lắng, an bài… Tại dãy nhà đầu làng đối diện với ngôi thánh đường khá cổ, có một gian nhà được ghi là “Phòng Lưu niệm Hàn Mạc Tử”. Bên trong có bàn thờ nhà thơ và trên vách treo một số bức chân dung người thân và người yêu của Hàn Mạc Tử. Đặc biệt còn đó chiếc giường gỗ cá nhân cũ kỹ, mảnh chiếu ố vàng mà Hàn Mạc Tử đã nằm qua 52 ngày rồi trút hơi thở cuối cùng vào tháng 11.1940, ở tuổi 28.

Thứ Ba, 23 tháng 6, 2020

LA GI, PHƯỚC HỘI XƯA - Phan Chính


           

           LA GI, PHƯỚC HỘI XƯA  
                                                                  Phan Chính

           Là một địa danh tồn tại khá lâu trước năm 1975 - xã Châu thành Phước Hội gồm 9 ấp thuộc quận Hàm Tân (Bình Tuy). Lúc ấy bao trùm các phần đất của các phường Phước Hội, Phước Lộc, Tân Thiện, Tân An và xã Tân Phước thuộc thị xã La Gi ngày nay với dân số gần 11 ngàn người. Sau năm 1975, Phước Hội, Phước Lộc là xã Tân Hòa và từ cuối 1979 là thị trấn La Gi (huyện Hàm Tân). Phước Hội trở lại với tên cũ từ cuối năm 2005 khi chia tách huyện Hàm Tân và thành lập thị xã La Gi, trên địa giới mới có diện tích 177 ha, dân số gần 17 ngàn người.

Thứ Hai, 15 tháng 6, 2020

TRỞ LẠI VÙNG ĐẤT XƯA TÁNH LINH (BÌNH THUẬN) - Phan Chính


             

TRỞ LẠI VÙNG ĐẤT XƯA TÁNH LINH (BÌNH THUẬN)
                                                                                  Phan Chính

Lần theo chặng đường hình thành cư dân bản địa đầu tiên ở Tánh Linh sẽ nghĩ đến sự xuất hiện làng người Chăm Tánh Linh - Palei Pacame (Lạc Tánh), phía nam tỉnh Bình Thuận, từ thời Minh Mạng thứ 5 (1824). Trước đó, đất Tánh Linh thuộc tổng Nông tang (tức địa bàn hành chính vùng sơn địa làm nông, trồng dâu nuôi tằm), huyện Tuy Định, phủ Bình Thuận. Làng Chăm Tánh Linh đã có sắc phong Thần quản tế cho Pô Harum Cơk, lãnh chúa người Chăm. Bên cạnh đó cũng có nhiều nhóm người Kinh vùng lân cận đến đây định cư lập ấp (Lạc Hóa) sống nghề khai thác sản vật rừng. Địa bàn Tánh Linh ngày xưa gồm cả huyện Đức Linh và Tánh Linh hiện giờ. Phần đất huyện Đức Linh nằm phía tây - tây bắc Bình Thuận có ranh chung với Đồng Nai, Lâm Đồng dài nhất. Ngoài ra còn có thổ dân là người K’ho, Raglai, Châu Ro, Mạ...  

Thứ Năm, 4 tháng 6, 2020

LA GI, LÝ LỘ VÀ DỊCH TRẠM NGÀY XƯA - Phan Chính


           


LA GI, LÝ LỘ VÀ DỊCH TRẠM NGÀY XƯA
                                                            Phan Chính

Quá trình khai phá đất đai, phát triển xóm làng của người xưa đều gắn với điều kiện giao thông đường sá (lý lộ). Sau khi chấm dứt tình trạng đất nước chia cắt Đàng Trong -Đàng Ngoài, đến thời nhà Nguyễn thống nhất mới để ý đến việc kiến tạo con đường cái quan từ bắc xuống nam. Trên địa bàn tỉnh Bình Thuận, ngoài việc giao thương bằng phương tiện ghe thuyền đường biển thì sau này theo địa thế từng vùng mà hình thành các loại đường gọi là quan báo, đó là đường sơn lộ miệt rừng núi, đường tiểu lộ và đường tiểu lộ ven biển. Qua sông rất hiếm nơi có bắc cầu, ở La Gi và lân cận chỉ có cầu Đông Thái (Hiệp Nghĩa), cầu La Giang (Phước Lộc), cầu Tân Quý (Sông Phan), cầu Phù Mi (Cù Mi)… nhưng tồn tại không lâu, mà chỉ đi lại bằng bè, đò ngang. Phương tiện vận chuyển chủ yếu là ngựa, xe trâu, xe bò, kiệu, võng và người mang vác… Thực chất những con đường quan lộ lúc bấy giờ như tên gọi chỉ dành cho công vụ và quan viên kinh lược hay cho mục tiêu thuộc địa.

Thứ Ba, 19 tháng 5, 2020

ĐI TÌM ĐỊA DANH BÌNH TUY - Phan Chính


             

            ĐI TÌM ĐỊA DANH BÌNH TUY

Có đến hai mươi năm địa danh tỉnh Bình Tuy là một phần đất rộng lớn phía tây nam của tỉnh Bình Thuận ngày nay. Dưới chế độ Việt Nam cộng hoà, từ một sắc lệnh ký ngày 25.10.1956 tỉnh Bình Tuy được thành lập gồm một phần đất của hai huyện Hàm Thuận,Tánh Linh và một phần đất của hai tỉnh Long Khánh, Lâm Đồng cùng lúc với 22 tỉnh miền Nam. Đến năm 1976, khi thành lập tỉnh Thuận Hải thì không còn nữa. Nhiều câu hỏi địa danh tỉnh mới này tại sao là Bình Tuy 平綏, mang ý nghĩa gì? Đối với Ngô Đình Diệm - Tổng thống đệ nhất VNCH vốn là người được hấp thụ nhiều Tây học nhưng cũng chịu ảnh hưởng nền giáo dục Nho giáo của gia đình, cho nên quyết định một tên tỉnh mới phải có lý do nào đó.

Thứ Bảy, 9 tháng 5, 2020

DẤU XƯA TUY PHONG, BÌNH THUẬN - Phan Chính


           


DẤU XƯA TUY PHONG, BÌNH THUẬN

Qua ngữ liệu, nguồn gốc địa danh của một vùng đất người ta có thể hình dung được một phần nào quá trình hình thành và những dấu tích có giá trị lịch sử mà thời gian đã dần dần đánh mất. Tuy Phong ngày nay được biết đến là một nơi địa đầu của tỉnh Bình Thuận, khắc nghiệt của nắng gió nhưng được thiên nhiên bù đắp lại bằng nhiều di tích, danh thắng luôn là những dấu ấn vừa lôi cuốn vừa lạ lùng. Thời gian từ phủ nâng thành tỉnh Bình Thuận vào năm Minh Mạng thứ 13 (1832), chia làm hai phủ Ninh Thuận và phủ Hàm Thuận, cùng lúc lập thêm 2 huyện Tuy Phong và Tuy Định (theo tổ chức hành chính bấy giờ huyện trực thuộc phủ). Năm 1836, phủ Ninh Thuận (thuộc tỉnh Bình Thuận) có 2 huyện An Phước, Tuy Phong. Huyện Tuy Phong có 4 tổng Bình An, Nghĩa Lập, Tuy Tịnh và tổng đảo Phú Quý (Thuận Tĩnh) gồm 10 đảo lớn nhỏ.

Chủ Nhật, 26 tháng 4, 2020

DẤU XƯA: BÌNH THUẬN - ĐÀ LẠT VÀ NHỮNG CON ĐƯỜNG / Phan Chính


             


        BÌNH THUẬN - ĐÀ LẠT VÀ NHỮNG CON ĐƯỜNG
                                                                                  Phan Chính

Đầu thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn mới nối tiếp con đường cái quan (thiên lý, quan lộ, quan báo) đã có, bắt đầu từ Quảng Nam vào tỉnh Bình Thuận và giáp địa giới Biên Hòa. Các con đường sơn lộ tuy có nhưng không mấy thuận lợi do bị cắt khúc, địa hình núi sông hiểm trở, thú dữ hoành hành. Cho nên đường quan lộ được mở rộng theo hướng ven biển và thời này đã hình thành nhiều xóm làng từ những đợt lưu dân phiêu tán bằng đường biển dọc dài từ bắc vào nam. Điểm đặt các dịch trạm cũng là nơi có làng chài, cửa sông và dân cư sống bằng nghề nông ổn định. Đến năm 1822 dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huỳnh Đức mới tiếp tục con đường quan lộ từ kinh đô Huế vào, trong đó trên phần đất trấn Biên Hòa có 6 trạm dịch theo hướng mở ngược ra miền ngoài từ Bình Trước (Biên Hòa) qua ngã ba Vũng Tàu.

Thứ Ba, 14 tháng 4, 2020

TÍN NGƯỠNG THẦN LINH XỨ BIỂN BÌNH THUẬN - Phan Chính


         


         TÍN NGƯỠNG THẦN LINH XỨ BIỂN BÌNH THUẬN
                                                                                    Phan Chính

Dải đất bờ biển Nam Trung bộ có địa hình phù hợp cho nhiều bến đỗ với làn sóng lưu dân, nhất là từ thời tiểu vương quốc Phanduranga cuối cùng, trở thành Thuận Thành trấn rồi tiếp đó là Bình Thuận phủ (1697). Cho nên đặc trưng về tín ngưỡng ở vùng đất duyên hải Bình Thuận trải dài gần 200 km bờ biển rải rác nhiều di tích đền chùa, miếu mạo, dinh vạn của dân bản địa Chăm - Việt, dân lưu vong Trung Hoa…

Thứ Tư, 1 tháng 4, 2020

ĐƯỜNG CÁI QUAN QUA ĐẤT BÌNH THUẬN THUỞ XƯA - Phan Chính


         


Lịch sử con đường thiên lý nối từ Bắc vào Nam, đi ngang qua đất Bình Thuận từ buổi đầu hình thành vẫn còn là những điều thật kỳ thú đối với thế hệ sau này. Qua các thời kỳ có nhiều tên gọi khác nhau, đường quan lộ, đường hạ đạo, đường quan báo, đường cái quan… có một vị trí quan trọng trong quá trình phát triển, mở mang đất nước từ giữa thế kỷ XI thời Lý Thái Tông (1028 -1054). Trên lãnh thổ Bình Thuận, phải liên hệ lại từ giữa thế kỷ XVII, người Chăm đã biết mở đường mòn, sử dụng voi làm phương tiện vận chuyển trong khai thác tài nguyên vùng rừng và biển miền Trung.