Sinh năm 1917, và mất năm 1950, sau một cơn bạo bệnh
giữa đường rừng, Thâm Tâm qua đời, lúc ông chỉ mới vừa ba mươi ba tuổi. Quá trẻ, và quá nổi tiếng với Tống Biệt Hành, một bài
thơ viết về cuộc tiễn biệt với thể hành, thể thơ cổ phong của Trung Hoa. Thể hành viết không dễ, người viết, ngoài tài thơ, còn
phải có một tâm hồn tự do và phóng túng, thì mới đem lại thành công cho bài thơ
được viết.
Ngoài Tống Biệt Hành, Thâm Tâm còn ba bài thơ khác,
cũng được xem là đáng kể, đó là Trả Lời Của Người Yêu, Màu Máu Ti Gôn, Dang Dở. Ba bài này, công bằng mà nói, nó không tròn trịa, xuất
sắc và gây được tiếng vang như Tống Biệt Hành, nhưng nó lại dính tới một vụ án
văn chương thời ấy, TTKh, nên nó làm xôn xao dư luận mãi cho đến tận nhiều chục
năm sau.
Trong những bài thơ tác giả ẩn danh hoặc ký tên nhưng
không biết rõ người ấy là ai, Hai sắc hoa
ty gôn và TTKh là một huyền thoại lãng mạn đã gây mối trắc ẩn cho nhiều thế
hệ yêu thơ. Câu chuyện bắt đầu cách đây 70 năm, ngày 27/9/1937
trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, số 174 xuất bản tại Hà Nội, có đăng truyện
ngắn Hoa ty gôn của Thanh Châu, nội dung kể lại mối tình tan vỡ của đôi trai
gái ngày trước đã hò hẹn dưới giàn hoa ty gôn. Ít lâu sau, có người đàn bà trẻ,
dáng dấp bé nhỏ, nét mắt u buồn, mang đến tòa soạn Tiểu Thuyết Thứ Bẩy một
phong bì dán kín, gửi cho ông chủ bút, trong có bài thơ Hai sắc hoa ty gôn, ký
tên TTKh. Bài thơ Hai sắc hoa ty gôn được đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy số 179,
ra ngày 30/10/1937, và sau đó còn ba bài nữa cũng ký tên TTKh được gửi bằng đường
bưu điện đến tòa soạn:
- Bài thơ thứ nhất, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy số 182
(20/11/1937), - Đan áo cho chồng, đăng trên Phụ Nữ Thời Đàm, - Bài thơ cuối cùng, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, số 217
(23/7/1938).
Bài thơ thứ nhất xuất hiện sau Hai sắc hoa ty gôn gần một tháng, và Bài thơ cuối cùng đăng tám
tháng sau. Ngay khi Hai sắc
hoa ty gôn ra đời, giới văn nghệ sĩ đã xôn xao, thi sĩ J. Leiba, người cùng
tâm sự với TTKh và là tác giả hai câu thơ nổi tiếng "Người đẹp vẫn thường
hay chết yểu. Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai", chép lại nguyên văn bài Hai sắc
hoa ty gôn trên Ngọ Báo với lời mở đầu:
Anh
chép bài thơ tự trái tim
Của
người thiếu phụ lỡ làng duyên
Lời
thơ tuyệt vọng ca đau khổ
Yên
ủi anh và để tặng em.
Nguyễn Bính sau khi đọc Bài thơ thứ nhất đã viết bài Dòng
dư lệ để tặng TTKh, in lại trong tập Lỡ
bước sang ngang và Thâm Tâm có ba bài Màu
máu ti gôn, Dang dở và Gửi TTKh, và nhiều thế hệ sau còn có những bài thơ
khác sụt sùi thương cảm cho số phận TTKh. Vậy TTKh là ai ?
Nữ sĩ Hoàng Hương Trang đã từ giã cõi đời vào lúc 6g sáng 15-4 - 2020 và được hỏa táng vào lúc16g chiều16-4-2020, hưởng thọ 84 tuổi. Tro cốt sẽ được đưa về Huế và chôn tại ngôi mộ trên một ngọn đồi do chị tự lập từ năm 2011.
Là người đa tài (vẽ tranh, làm thơ, viết văn, sọan nhạc,
viết thư pháp) nên hơn nửa thế kỷ qua chị giao tiếp nhiều cây cao, bóng cả
trong làng văn, trận bút. Đặc biệt nghe chị hay nhắc về thi bá Vũ Hoàng Chương,
kịch tác gia Vi Huyền Đắc, nhạc sĩ Phạm Duy, nhạc sĩ Lê Thương, thi sĩ Kiên
Giang, nhà văn Toan Ánh, nhàthơ
Tế Hanh... Chị còn là một nghệ sĩ ngâm thơ trong chương trình Tao Đàn (do thi sĩ Đinh Hùng cùng bạn bè lập ra chương trình Tao Đàn năm 1955 trên Đài phát thanh Sài Gòn)cùng các
nghệ sĩ Hồ Điệp, Hoàng Oanh, Giáng Hương, Quách Đàm, Tô Kiều Ngân, Đoàn Yên
Linh, Vân Khanh, Hà Linh Bảo, Hồ Bảo Thanh, Mai Hiên, Huyền Trân, Hồng Vân... Chị đã viết thơ tự vịnh về mình:
Thơ
hơn chục cuốn, vạn bài
Văn
ngoài dăm quyển, ngàn trang
Họa
sáu mươi niên, dư vài trăm bức
Nhạc
điểm xuyết mấy khúc ca.
Ngâm
nga gần bảy chục năm, Tao Đàn nổi tiếng
Một trong những bài ngâm thơ của chị mà La Thụy còn
lưu giữ được là “Tống biệt hành”, thơ của thi sĩ Thâm Tâm.
Hôm nay, La Thụy làm video clip để tưởng niệm nữ sĩ
Hoàng Hương Trang và tống biệt chị về vùng trời miên viễn. Nguyện cầu hương
linh chị siêu thoát về nơi cực lạc.