BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC
Hiển thị các bài đăng có nhãn VĂN TẾ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn VĂN TẾ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 14 tháng 3, 2023

VĂN TẾ LIỆT SĨ GẠC MA – Kha Tiệm Ly

Kính dâng anh linh của 64 anh hùng hy sinh vì tổ quốc thân yêu tại Gạc Ma ngày 14/3/1988


Ôm hận thù biển cao sóng hờn căm,
Phủ tang tóc mây che màu u uất.
Giọt máu hồng làm mặn nước biển đông,
Khăn sô trắng phủ đau trời tổ quốc!
Nhớ xưa,
Anh em ta cùng giống Tiên Rồng,
Bờ cõi nước trải liền Nam Bắc.
Từ Năm  Quan về  Cà Mau, sông vạn ngàn sông
Từ Trường Sơn đến Hoàng Sa, đất muôn dặm đất.
Phơi gan mật thề bảo tồn một cõi biên cương,
Đổ xương máu quyết giữ vững ba miền xã tắc.
Ở sau bếp cũng gặp mặt nữ lưu,
Ra khỏi ngõ lại chạm người hào kiệt!
Điên tiết giặc, Nguyễn Biểu sang sảng lời thơ, thản nhiên ăn cỗ đầu người,
Điếc tai thù, Bình Trọng ngân ngất chí hùng, khinh mạn làm vua phương bắc.
Hỡi quân thù!
Sao mi giở thói cũ, chiếm đất xua quân,
Sao mi ỷ thế mạnh hiếp tàu cắt cáp?
Cậy tàu lớn, nghênh ngang cho chiếc bắn chiếc đâm,
Ỷ người đông, vô tư cứ chân chà chân đạp!
Tay đàn điếm nên mới vạch “lưỡi bò”,
Miệng quỷ ma còn nói câu “bốn tốt”.
Bởi tin “bốn tốt” mà Sinh Tồn chẳng đặng tồn sinh
Vì mạ “chữ vàng” mà Gạc Ma bị yêu ma gạt!
Cho mi hay!
Lời thề Hưng Đạo cuộn sóng nước Hóa Giang,
Câu thơ Thường Kiệt vỡ lòng sông Như Nguyệt.
Máu chánh khí tôi đỏ lửa căm thù,
Tim sắt thép thét khan lời bất khuất.
Cỏ cây còn đổ lệ sụt sùi,
Sỏi đá khó nén lòng căm tức!
Cho nên,
Hoàng Liên Sơn vẫn vươn đỉnh chọc thủng mấy tầng mây,
Cửu Long Giang lại cựa mình hóa thành rồng chín khúc
Còn triệu trái tim chính khí thì còn tổ quốc Viêt Nam,
Còn một giọt máu anh hùng, thì còn giang sơn Hồng Lạc.
Đất ta không thiếu Chi Lăng, Hàm Tử , Ngọc Hồi,
Người ta không thiếu Ngô Quyền, Quang Trung, Hưng Đạo.
Súng mi càng nổ, biển ta càng cuộn sóng căm hờn,
Máu ta càng rơi, đảo ta càng cao thềm bất khuất!
Đảo mang thương tích, đất mẹ trăm sông cùng dậy sóng Bạch Đằng,
Biển nổi ba đào, cả nước vạn dân không quên lời Sát Thát.
Cho nên,
Trần Văn Phương hứng bao viên đạn, còn một lòng giữ biển đảo quê hương,
Nguyễn Văn Lanh bị mấy nhát lê, vẫn nhất quyết ôm cán cờ tổ quốc!
Không chịu hàng trước họng súng thù,
Thà làm mồi ngay hàm cá mập!
Thây treo đầu súng, thây chất lên thây,
Máu nhuộm lòng sâu, máu hòa theo máu.
Nay một lời, sau vẫn một lời, bản sắc anh hùng đâu dễ nhẹ tênh,
Sống một lần, chết cũng một lần, xương máu anh linh không hề ô trọc!
Than ôi!
Xưa quên mình vì nước, sử ngàn đời kẻ tiếc người thương,
Nay giữ đảo quên thân, người bây giờ ai quên ai nhắc?
Mặc ai vô tình không nhớ, thì cây Trường Sơn ngàn thuở vẫn thêm xanh,
Mặc ai cố ý muốn quên, thì máu hào kiệt muôn thu còn tươi sắc.
Thương con thơ vợ dại, trở trăn cùng gối chiếc lạnh lùng,
Nhớ cha yếu mẹ già, thao thức bên đèn khuya hiu hắt!
Gió buồn ai mà gió thổi vi vu,
Mây buồn ai mà mây trôi man mác?
Hỡi anh linh!
Dù cho máu nhuộm màu mây,
Dù cho xương tan màu cát.
Máu anh hùng dù chết vẫn sục sôi,
Gươm chánh khí dẫu mòn không rỉ sét.
Sống làm tướng, thác làm thần, đời đời rạng ánh uy linh,
Sống làm người, thác làm phân, mãi mãi xanh cây tổ quốc
Hôm nay.
Sáu bốn (64) hồn thiêng anh kiệt, triệu người ngưỡng mộ, mặc tình ai chẳng biết hiền, ngu.
Ba lăm năm thương hải tang điền, vạn sử lưu danh, vẫn còn kẻ tinh tường vinh, nhục!
Tâm hương ba nén, làm thơm trang sử vàng ghi,
Văn tế môt bài, thay cho ngàn năm đá tạc.
Ô hô! Có linh xin hưởng!

                                                           KHA TIỆM LY kính bút
 
Các thủy thủ tàu HQ-505 đã anh dũng chiến đấu trong hải chiến Trường Sa 1988. 
Xử lý ảnh: Đỗ Linh.

Thứ Sáu, 9 tháng 12, 2022

VĂN TẾ ANH HÙNG THIÊN HỘ DƯƠNG – Kha Tiệm Ly


Nhà văn Kha Tiệm Ly

Than ôi!
 
Rừng Gò Tháp mấy dặm sầu giăng,
Dân Cao Lãnh muôn hàng lệ đổ!
Nhớ người hào kiệt, cỏ cây lúc thảm lúc sầu
Xót kẻ hùng anh, trăng sao khi mờ khi tỏ!
 
Nhớ xưa,
 
Sông Côn (1) trùng trùng linh mạch, sản sinh bao liệt nữ kiên trung,
Núi Thơm (1) ngân ngất khí thiêng, phát tích những anh tài văn võ.
 
Thôn Cù Lâm (1) xuất thiếu niên tài tuấn, đấu vỏ, kéo bè, sức mạnh siêu quần, dân lành cùng thời tôn gọi Ngũ Linh (2)
Đất Ba Giồng (3) nạp hào kiệt hảo bằng, đánh Tây, dẹp Rợ, công cán hơn người, vua sáng đương triều sắc phong Thiên Hộ.
 
Súng Lang Sa đạn bay sáu tỉnh, gót giày đinh dẫm nát xóm thôn; tàn ác sao loài quỷ trắng hung tàn.
Người Nam Kỳ lệ ngập chín sông, tiếng than oán thấu tận trời xanh, thương xót quá kiếp dân đen thống khổ !
 
Kẻ im miệng thì bị rỉa thịt rút xương,
Người phản kháng phải chịu cắt hầu chặt cổ!
 
Vì thế, Võ tướng quân:
 
Trương cờ nghĩa nạp đệ huynh bốn hướng; cờ bảo quốc, cờ an dân, cờ giành lấy độc lập tự do,
Tuốt gươm thiêng kết giao hào kiệt ba miền; gươm trừ ác, gươm diệt thù, gươm chém tan ba đào giông tố.
 
Xứ Ba Giồng chiêu dân lập ấp, gạo trắng nước trong: chỗ lý tưởng cho nghĩa sĩ ẩn mình.
Đất Gò Tháp xây lũy ngăn thù, bưng rộng trấp sâu: vùng đắc địa để  anh hùng dụng võ.
 
Bài quyền Yễm Bách (4), nhắm quân thù giương mạnh thần cung, tên bắn mút tầm,
Đường roi Song Đôi (4), cùng hảo hán chỉ thẳng bảo đao, ngựa phi thẳng vó!
 
Rõ ràng!
 
Tháp Mười đầm lầy miên dã, tạo bao tử địa quỷ khốc thần sầu.
Cao Lãnh cạm bẫy kinh người, góp những chiên công trời long đất lỡ.
 
Trận Mỹ Trà (5) giáp công ba mũi; phá tàu thủy, phá nhà việc, phá hết kho tàng; quân thù nghẹt xác.
Trận hỏa công lửa cháy bốn bề; đốt thằng lính, đốt thằng quan, đốt rụi cánh đồng; lính Tây phơi sọ (6).
 
Rắn thần (7) nhe nanh há họng, mổ thằng nhỏ, mổ thằng to, đám quan binh súng bỏ đầy đường.
Trâu binh (8) hữu đột tả xông, chém đằng trước, chém đằng sau, lũ cướp nước thây nằm vô số!
 
Dân Mỹ Ngãi, dân Ba Giồng, Rạch  Ruộng (9)…,  sát cánh kề vai, bám thế đất, quyết đưa thuyền độc lập cặp bờ.
Đốc Binh Kiều, Lảnh Binh Thăng, Bà Bướm (10)…chung lưng đấu cật, dựa lòng dân cùng trương buồm tự do căng gió.
 
Cao quý thay!
 
Trời cao lồng lộng, vì độc lập giống nòi, chí anh hùng đặt tại non cao.
Súng đạn ầm ầm, vì cơm áo muôn dân, chuyện sanh tử xem như cây cỏ!
 
Xông pha sóng gió, tay giữ vũng chèo,
Đối mặt quân thù, gươm bung khỏi vỏ.
Đồng Tháp Mười thập phần hiểm trở, địch quân càng mạnh, càng kiên định chồng thù.
Dòng Cửu Long chín khúc liệt oanh, giông tố càng to càng oai hùng sóng vỗ
 
Oanh liệt thay!
 
Dù nửa đời oanh liệt, mà dân Nam Kỳ chích đầu với mảnh khăn tang,
Bởi một trận cuồng phong, mà thần Biển Cả rước người về cùng tiên tổ!
 
Sống một lần, uy danh làm khiếp vía với vạn vạn địch quân, nào cần chi sắc phán đại thần,
Thác một lần, tên tuổi được tôn thờ trong triệu triệu trái tim, đâu cầu được siêu thăng tịnh độ!
 
Máu ghi công, xương ghi đức, sử sách thiên thu ghi nét chữ rành rành.
Sống làm tướng, thác làm thần, nhật nguyệt nghìn năm soi tiếng tăm lồ lộ.
 
Người đương thời than:
“Ai về Đòng Tháp mà coi,
Mộ ông Thiên Hộ trăng soi lạnh lùng”
 
Ô hô!
 
Máu cần phải đỏ, máu cần phải tươi, máu đổ vì dân, không hổ thẹn muôn người.
Mộ đâu cần lớn, mộ đâu cần cao; mộ ở lòng người mới trường tồn thiên cổ.
 
Sống vì dân, sống vì nước, bia đá khắc sâu người ái quốc vạn kỷ không phai
Nghĩa bằng biển, nghĩa bằng non, sử xanh đậm nét tiếng anh hùng thiên thu còn đó.
 
Xót thương thay!
 
Thương anh hùng xả thân cứu nước, bao ngày vào tử ra sinh.
Thương nghĩa binh đổ máu phơi xương, cả đời dầm sương dãi gió!
 
Thương người quên mình vì nước mà xác thân dập vùi nơi góc biển ven gành.
Thương người gởi xác sa trường mà hồn phách dật dờ chốn ngàn lau nội cỏ!
 
Thương người tăm hơi vời vợi, chập chờn trong con sóng lênh đênh,
Thương ai chiếc bóng lạnh lùng, hiu hắt dưới đèn khuya mờ tỏ!
 
Nợ tổ quốc, nợ đồng bào dù đã vẹn toàn,
Nợ anh hùng, nợ tào khang vẫn còn dang dở!
 
Tướng quân ôi!
 
Nợ dân đã trả, thần nhân sao chẳng nghênh ngang gõ bước về trời,
Chí lớn đền xong, anh hùng sao chưa ung dung vén mây lướt gió?
 
Ân như sông, ân như núi, đã được muôn người ghi dạ khắc xương,
Danh dậy đất, danh dậy trời, đâu cần mấy tiếng khua chiêng đánh mõ?
 
Hôm nay,
 
Muôn người vọng bái, chốn đền thiêng nghi ngút khói trầm bay,
Một dạ hướng về, miền linh địa đớn đau dòng lệ nhỏ!
 
“Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục” (11) ; hình hài dẫu nát tan, nhưng ô nhục vạn kỷ vẫn lưu truyền,
“Khả mai cốt bất khả mai danh” (12); xương cốt bị chôn vùi, mà thanh danh thiên thu không hoen ố.
 
Ngôn từ vụng dại mà tâm ý vô cùng, kính tiễn đấng hùng anh ngọc bộ đăng trình.
Lễ vật thô sơ nhưng thâm tình viên mãn, ngưỡng mong đại tướng quân thần uy chiếu cố.
 
Bậc tiên hiền một thưở ban ân,
Chúng hậu sinh muôn đời ngưỡng mộ!
 
Thượng hưởng!
 
                                                                                KHA TIỆM LY
 
...........
 
Chú thích:
 
(1). Những địa danh tại quê hương Thiên Hộ
(2). Ngũ linh: 5 trái linh, mỗi trái 60kg, Võ Duy Dương xách 2 trái, cặp nách 2 trái, cắn 1 trái. Người đời thấy ông sức khỏe thần kỳ nên tôn ông là Ngũ Linh Dương.
(3). Ba Giồng: Địa danh ở Cao Lãnh, căn cứ địa của nghĩa quân
(4). Hai thế võ bí truyền của Thiên Hộ Dương
(5). Mỹ Trà: Một địa danh ở Cao Lãnh, nơi xảy ra trận đánh khốc liệt; quân Pháp đại bại
(6). Phơi sọ: Trong trận hỏa công, quân Pháp chết như rạ, thây phơi đầy đồng; cánh đồng nầy gọi là Đồng Phơi Sọ
(7). Rắn thần: Tương truyền Thiên Hộ Dương có rắn thần giúp sức.
(8). Trâu binh: Thiên Hộ Dương có một vị tướng có tài điều khiển trâu bằng mõ, được phong là Ngưu Quân Thượng Tướng.
(9). Những địa danh tại Đồng Tháp
(10). Tên những tướng lãnh của Thiên Hộ Dương
(11). “Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục” (câu nói xưa): Thà chịu chết chớ không chịu nhục
(12). “Khả mai cốt bất khả mai danh” (câu nói xưa): Có thể chôn xương cốt chớ không thể chôn danh tiếng.

Chủ Nhật, 26 tháng 9, 2021

VĂN TẾ ĐỒNG BÀO SÀI GÒN TỬ NẠN VÌ DỊCH CÔ VI – Kha Tiệm Ly




Than ôi!
1. Núi đùn mây bốn đợt ngậm ngùi
Rừng trút lá hai mùa tan tác!
2. Nước ba miền ruột tím gan bầm
Người trăm triệu tim đau dạ thắt.
Có câu:
3. “Phong Châu hạo nhiên nguyên khí, vạn đại cao hiền,
Thăng Long linh mạch địa dư, phi thường uyên bác!”
Nhớ nước ta xưa,
4. Hồng Hà trùng trùng  nước xoáy, tay mài kiếm, tay diệt thù, mà người dịu dàng như lời dặm, câu thơ,
Cửu Long cuồn cuộn sóng gào; người mở đất, người khai sơn; mà lòng hiền hòa như củ khoai, cục đất.
5. Đất Gia Định mưa hòa gió thuận, đây sông Tiền, đây sông Hậu; trời nước mênh mông làm nên khí phách anh hùng,
Người Trường An chữ tốt văn hay, đây hồ Gươm, đây Trấn Quốc; thổ nhưỡng uy linh tạo thành ngàn năm văn vật.
6. Tình no đầy như trái bưởi trái dưa,
Đời êm ả tợ cánh cò cánh vạc.
Nào ngờ đâu,
7. Niềm vui còn hòa quyện cùng cây cỏ nước Nam,
Tai họa vội lỏi len từ biên cương phía Bắc!
8. Chẳng mang vũ khí mà đúng là quân địch, các địa phương lo đứng lo ngồi, xuôi ngược lao đao,
Không chấp hai cánh nhưng y hệt thiên thần, ngành y tế quên ngủ quên ăn, ngày đêm tất bật.
9. Người ấm no tự dưng đói rách, thương đời bá tánh lầm than,                                                                       
Trẻ cười vui chợt phải nghẹn ngào, giận giặc Cô vi hiểm ác!
10. Nó làm ta phải ngăn sông cấm chợ, khiến nhiều người không gạo không tiền, đành kéo nhau ngủ bụi ngủ bờ,
Nó làm ta phải đón ngõ chặn đường, gây bao kẻ thiếu áo thiếu cơm, phải cam chịu mưa nam gió bấc.
11.Vợ ôm con đèn khêu hiu hắt, biết cậy ai chén nước chén cơm,
Đường về quê nắng cháy chang chang, mong làng xóm cọng rau cọng rác.*
12. Chợ Bến Thành đường ngang đường dọc, ngó trẹo đầu không thấy bóng ma trơi,
Bình Hưng Hòa xe nhỏ xe to, đợi sái cổ chờ hóa thân tro cát!
Gia Định ơi!
13. Đâu hồi Sài Gòn diễm lệ, đâu hồi Hòn Ngọc Viễn Đông, người người mỏng áo cao hài,
Đâu hồi Thành đô hoa gấm , đâu hồi Vựa Lúa Miền Nam, năm năm no lòng ấm cật!
14. Đang buổi mưa sa đất tốt, cây vườn liền nẩy lộc đâm chồi, cành nhánh sum suê,
Nào ngờ gió tụ mây đen, Cô vi làm héo nụ tàn hoa, trái rơi tan tác!
Hỡi ôi!
15. Khói lò thiêu xót xa giờ ly biệt; chồng lìa vợ, vợ lìa chồng, lệ rơi nhầy đất đau thương,
Mảnh khăn tang đau đớn kiếp đơn côi, con khóc mẹ, mẹ khóc con, uất nghẹn đầy trời bi đát.
16. Thương trẻ thơ chịu côi cút vào tuổi nằm nôi,
Thương chồng vợ chia lìa trong tuần trăng mật!
17. Thương kẻ làm thuê ở mướn, ngày mong no cơm ấm áo, đâu dè vất vưởng vất vơ,
Thương người ở đậu sống nhờ, bữa cầu ấm chỗ êm nơi, nào ngờ cù bơ cù bất.
18. Thương kẻ mồ côi màn trời chiếu đất, sức mỏi mòn cơm cặn canh thừa,
Thương kẻ già nua gối đất nằm sương, đời lận đận áo ôm khố rách.
May thay!
19. Trong màu áo trắng luôn có nhiều đôi cánh thiên thần,
Giữa chốn bụi hồng vẫn còn thừa tấm lòng bồ tát!
20. Dù đường dài có lắm khúc gai góc chông chênh,
Nhưng đêm vắng luôn nhiều ánh sao trời vằng vặc!
21. Nghìn bàn tay đã chia phần cho bao mảnh đời áo rách cơm thiu,
Vạn tấm lòng vẫn nhường chỗ cho những phận người nhà xiêu cửa nát.
22. Ngành y tế đâu màng giấc ngủ, dậy sớm thức khuya, vì nhiều suy tính dập dồn,
Người chiến binh nào quản sớm hôm, ăn vội uống vàng, bởi lắm lo toan chồng chất.
23. Dịch bệnh sáng chiều tới tấp, những thiên thần đâu thể làm ngơ,
Bịnh nhân sớm tối liên miên, các chiến sĩ đâu đành ngoảnh mặt.
24. Cứu binh như cứu hỏa, miền Bắc thân thương tức tốc tiếp quân hăm hở lên đường,
Chống dịch như chống thù, bộ đội anh hùng sẵn sàng ra trận hiên ngang gánh vác.
25. Người tặng thuốc men, người cho thực phẩm, người gói thi hài,
Người tặng máy thở, người biếu quan tài, người lo liệm xác!
26. Giương cao lời thề y đức, đã bao người đối diện “quân thù”, rồi hiên ngang thanh thản bước về trời,
Sải rộng đôi cánh từ tâm, có lắm kẻ cận kề “giặc dữ”,  đã kiêu hãnh an nhiên nằm với đất!
27. Đẹp đẽ sao! “Máu đỏ chảy ruột mềm”,.
Cao cả thay! “Lá lành đùm lá rách!”
 Vong linh hỡi!
28. Miền âm cảnh vật vờ hồn phách, lúc giã từ đâu kẻ tiễn đưa.
Trại cách ly chua xót phận người, giờ trăn trối không ai vuốt mặt!
29. Đò vô thường sào neo thuyền đợi, đâu chọn má phấn môi son hay tóc bạc da mồi,
Kiếp nhân sinh sống gởi thác về, không hiềm vách đất nhà tranh hay lầu vàng gác bạc.
30. Bốn cảnh khổ, thì luyến lưu chi chốn Ta Bà,
Vạn niềm vui, hãy thanh thản về miền Cực Lạc!
31. Chướng chưa đến, sao kéo theo bấc lạnh lùng?
Người đã đi, nên bỏ buông điều u uất!
32. Đây lòng thành kính, hãy nhâm nhi, miếng trầu điếu thuốc đơn sơ,
Kia đường xa xăm, xin bỏ bụng ly rượu chén cơm đạm bạc!
Ô hô! Có linh xin hưởng!
 
                                                                                  KHA TIỆM LY
......

Chú:

* Muốn nói việc đồng bào miền Trung kéo nhau về quê

Thứ Hai, 15 tháng 3, 2021

VĂN TẾ TỬ SĨ GẠC MA – Kha Tiệm Ly

 


VĂN TẾ TỬ SĨ GẠC MA 
 
Thương ôi!
Ôm hận thù biển cao sóng hờn căm,
Phủ tang tóc mây che màu u uất.
Giọt máu hồng làm mặn nước biển đông,
Khăn sô trắng phủ đau trời tổ quốc!
Nhớ xưa,
Anh em ta cùng giống Tiên Rồng,
Bờ cõi nước trải liền Nam Bắc.
Từ Đồng Quan về Minh Hải, sông vạn ngàn sông
Từ Trường Sơn đến Hoàng Sa, đất muôn dặm đất.
Phơi gan mật thề bảo tồn một cõi biên cương,
Đổ xương máu quyết giữ vững ba miền xã tắc.
Ở sau bếp cũng gặp mặt nữ lưu,
Ra khỏi ngõ lại chạm người hào kiệt!
Điên tiết giặc, Nguyễn Biểu sang sảng lời thơ, thản nhiên ăn cỗ đầu người,
Điếc tai thù, Bình Trọng ngân ngất chí hùng, khinh mạn làm vua phương bắc.
Hỡi quân thù!
Sao mi giở thói cũ, chiếm đất xua quân,
Sao mi ỷ thế mạnh hiếp tàu cắt cáp?
Cậy tàu lớn, nghênh ngang cho chiếc bắn chiếc đâm,
Ỷ người đông, vô tư cứ chân chà chân đạp!
Tay đàng điếm nên mới vạch “lưỡi bò”,
Miệng quỉ ma còn nói câu “bốn tốt”.
Bởi tin “bốn tốt” mà Sinh Tồn chẳng đặng tồn sinh
Vì mạ “chữ vàng” mà Gạc Ma bị yêu ma gạt!
Cho mi hay!
Lời thề Hưng Đạo cuộn sóng nước Hóa Giang,
Câu thơ Thường Kiệt vỡ lòng sông Như Nguyệt.
Máu chánh khí tôi đỏ lửa căm thù,
Tim sắt thép thét khan lòng bất khuất.
Cỏ cây còn đổ lệ sụt sùi,
Sỏi đá khó nén lòng căm tức!
Cho nên,
Hoàng Liên Sơn vẫn vươn đỉnh chọc thủng mấy tầng mây,
Cửu Long Giang lại cựa mình hóa thành rồng chín khúc
Còn triệu trái tim chính khí thì còn tổ quốc Viêt Nam,
Còn một giọt máu anh hùng, thì còn giang sơn Hồng Lạc.
Đất ta không thiếu Chi Lăng, Hàm Tử , Ngọc Hồi,
Người ta không thiếu Ngô Quyền, Quang Trung, Hưng Đạo.
Súng mi càng nổ, biển ta càng dậy sóng căm hờn,
Máu ta càng rơi, đảo ta càng cao thềm bất khuất!
Đảo mang thương tích, đất mẹ trăm sông cùng dậy sóng Bạch Đằng,
Biển nổi ba đào, cả nước vạn dân không quên lời Sát Thát.
Cho nên,
Trần Văn Phương hứng bao viên đạn, còn một lòng giữ biển đảo quê hương,
Nguyễn Văn Lanh bị mấy nhát lê, vẫn nhất quyết ôm cán cờ tổ quốc!
Không chịu hàng trước họng súng thù,
Thà làm mồi ngay hàm cá mập!
Thây treo đầu súng, thây chất lên thây,
Máu nhuộm lòng sâu, máu hòa theo máu.
Nay một lời, sau vẫn một lời, bản sắc anh hùng đâu dễ nhẹ tênh,
Sống một lần, chết cũng một lần, xương máu anh linh không hề ô trọc!
Than ôi!
Xưa quên mình vì nước, sử ngàn đời kẻ tiếc người thương,
Nay giữ đảo quên thân, người bây giờ ai quên ai nhắc?
Mặc ai vô tình không nhớ, thì cây Trường Sơn ngàn thuở vẫn thêm xanh,
Mặc ai cố ý muốn quên, thì máu hào kiệt muôn thu còn tươi sắc.
Thương con thơ vợ dại, trở trăn cùng gối chiếc lạnh lùng,
Nhớ cha yếu mẹ già, thao thức bên đèn khuya hiu hắt!
Gió buồn ai mà gió thổi vi vu,
Mây buồn ai mà mây trôi man mác?
Hỡi anh linh!
Dù cho máu nhuộm màu mây,
Dù cho xương tan màu cát.
Máu anh hùng dù chết vẫn sục sôi,
Gươm chánh khí dẫu mòn không rỉ sét.
Sống làm tướng, thác làm thần, đời đời rạng ánh uy linh,
Sống làm người, thác làm phân, mãi mãi xanh cây tổ quốc
 
Hôm nay.
Sáu mươi bốn (64) hồn thiêng anh kiệt, triệu người ngưỡng mộ, mặc tình ai chẳng biết hiền, ngu.
Ba mươi hai năm thương hải tang điền, vạn sử lưu danh, vẫn còn kẻ tinh tường vinh, nhục!
Tâm hương ba nén, làm thơm trang sử vàng ghi,
Văn tế một bài, thay cho ngàn năm đá tạc.
Ô hô! Có linh xin hưởng!
 
                                                                          Kha Tiệm Ly kính bút
 
.........................
 
KHA TIỆM LY
99/5 Đinh Bộ Lĩnh Phường 2, tp Mỹ Tho Tiền Giang
Tel: 0987  701  952   -   01229  880  130
Email: khatiemly@gmail.com

Thứ Sáu, 7 tháng 8, 2020

VĂN TẾ NAM PHONG PHẠM THƯỢNG CHI TIÊN SINH - Nguyễn Phúc Vĩnh Ba

Tiểu dẫn:
Cụ Phạm Quỳnh là một trong bộ tứ "Quỳnh, Vĩnh, Tốn, Tố", những người đã góp công sức rất nhiều cho việc truyền bá chữ quốc ngữ trong thời kỳ đầu. Văn nghiệp của cụ rất đồ sộ. Bài văn tế này chỉ phác họa sơ chân dung một học giả đáng kính của nền văn học nước ta trong thế kỷ 20. (Bài này viết cách đây 10 năm rồi).

             
                                       Cụ Phạm Quỳnh


VĂN TẾ NAM PHONG PHẠM THƯỢNG CHI TIÊN SINH

Hỡi ơi!

Trời còn nổi gió hướng Nam, (1)
Đất đã khóc người xứ Bắc. (2)
Những tưởng xông xáo trường văn trận bút, cho thoả lòng mong muôn thuở: Tiếng ta còn, (3)
Ai hay vắng hoe gò trống đồi hoang, mà thắt ruột đau một đời: Tiên sinh mất. (4)
Con trẻ Tạo sao quá đành hanh?
Lão già Thiên nỡ nào quá quắt!

Thứ Năm, 2 tháng 7, 2020

VĂN TẾ ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU - Kha Tiệm Ly


  
                   Nhà văn Kha Tiệm Ly


VĂN TẾ ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU 

*Giải nhất toàn quốc năm 2020
*Bản đã chỉnh sửa

Than ôi!

1. Gió dìu mây, mây phủ màu tang,
Sương thức lá, lá rơi nước mắt.

2. Khóc người tuấn kiệt, núi thẳm ngậm ngùi,
Chạnh khúc đoạn trường, dòng sâu man mác!

Nhớ văn hào xưa,

3. Vốn nòi thế phiệt, lời lời hoa thêu gấm dệt, hàng hàng ý ngọc lời châu,
Nhằm cửa danh gia, ngày ngày ngọc dát châu đeo, bữa bữa đũa ngà chén bạc.

4. Hồng Lĩnh đỉnh cao vòi vọi, muôn khí thiêng hun đúc bậc anh tài,
Lam Giang bờ rộng thênh thênh, vạn nguồn mạch sản sinh người khoáng dật.

5. Thông minh đĩnh ngộ, bút văn chương sánh bậc Đỗ, Vương, (1)
Hòa ái khiêm cung, điều nhân nghĩa noi thầy Khổng, Mặc. (2)

6. Cao bằng hiền hữu, luôn chọn bậc trọng nghĩa khinh tài, đâu hiềm nhà cao cửa rộng hay điếm cỏ cầu sương,
Tri kỉ hồng nhan, chỉ lựa người nhả ngọc phun châu, chẳng màng cổng kín tường cao hay lầu ca viện hát.

7. Tài năng đó khó khăn chi danh đề bảng hổ, vinh hiển tổ tông?
Nhân cách ấy trở ngại gì tế thế an bang, chấn hưng xã tắc?

Ngờ đâu,

8. Thời li loạn hốt bạch vân thương cẩu, còn đâu hồi áo gấm hài thêu,
Lửa chiến chinh biến thương hải tang điền, nào ngờ lúc nhà tan cửa nát!

9. Buổi giao thời chia đường hai lối, về phương nào khi thay chúa đổi tôi,
Tiếng đao binh tạo khúc đoạn trường, đàn làm sao khi lạc cung sai bậc?

10. Kinh luân một bụng, đâu anh hùng, đâu tri kỉ, đường trần ai ngoảnh lại bơ vơ.
Kinh điển năm xe, nào trung can, nào khí tiết, đạo thần tử ngẫm càng chua chát!

11. Hùng tâm tráng khí, mà bóng quần hào sau trước vắng tênh,
Viễn trí cao tài, nhưng đường tiến thoái dọc ngang bế tắt!

12. Mộng phù Lê tàn phai lần lữa; làm được gì khi bóng lẻ thân cô?
Vọng cố hương đau xót não nùng; thương biết mấy ngày canh rau cơm lạt!

13. Dằn câu khí tiết, chốn sân chầu che mặt uốn lưng tôm,
Ngậm tiếng thị phi, nơi cửa khuyết nén lòng khum gối hạc!

14. Đã trót đánh rơi thanh kiếm, vinh dự chi lơ láo phận hàng thần.
Thôi đành nương náu bệ rồng, thẹn thùng lắm lất lây hồi đầu bạc!

15. Qua quan ải, giận cuồng ngôn tên ác tướng Phục Ba, (3)
Nhớ Hát Giang, trọng khí tiết vị nữ vương Trưng Trắc.

16. Dù Đồng Trụ rêu đã xanh rì ,
Nhưng Đằng Giang cọc còn nhọn hoắt!(4)

17. Đến viễn phương thấy đời đau khổ, kẻ tù đày, người đói rách, nhớ quê xưa tấc dạ bồi hồi.
Viếng danh nhân chạnh nỗi đoạn trường, nào bi phẫn, nào oan khiên cảm thân phận cõi lòng u uất.

18. Bởi bạo quyền giấu nanh che vuốt, nhai xương người ngọt tợ cao lương. (5)
Nên lê dân bóp bụng thắt hầu, ăn rau dại thường hơn cơm vắt!

19. Đầu Ban Siêu (6) phơ phơ màu tóc, nợ sơn hà tấc đất ngọn rau,
Mây Hoành Sơn bàng bạc đầu non, xót phần số hồng nam nhạn bắc!

20. Đường công danh phủ bao lớp trần ai,
Màu danh lợi nhuộm mấy lần bạch phát!

21. Mãi trông đàn nhạn vỗ cánh nhịp nhàng hướng đỉnh Hồng Sơn,
Mà mặc vó ngựa gõ nhịp u buồn về miền Kinh Bắc!

22. Mỗi bước li hương, mỗi bước não nùng,
Từng hồi nhớ quê, từng hồi quặn thắt!

Mới hay,


23. Li ngự tửu không ngon ngọt lại đắng cay,
Tình đồng liêu chẳng mặn mòi mà nhợt nhạt!

24. Chốn quan trường lỡ thầy lỡ tớ, ích lợi gì chữ tốt văn hay?
Nơi triều trung gượng nói gượng cười, sượng sùng lắm mũ vàng đai bạc!

25. Chán khòm lưng quỳ nơi chín bệ, thùng thình vướng áo rộng hài cao,
Muốn phanh ngực nằm dưới bách tùng, thư thả ngắm trăng thanh gió mát.

26. Sờ tóc trắng thẹn cùng Hồng Lĩnh, thẹn cùng tảng đá, chòm cây,
Nhìn mây chiều nhớ đến Lam Giang, nhớ đến cội tùng, dòng thác

27. Thanh Hiên Thi Tập, gởi gắm phận mình lỡ thời thất thế, đá nát vàng phai,
Bắc Hành Tạp Lục, xót thương bao người ách nước tai trời, mưa vùi gió dập.

Dù cho,

28. Sao văn chương xé toạc lưng trời,
Lòng nhân ái trải dày mặt đất.

29. Viết văn tế độ người thảm tử, xót thập loại chúng sinh sống đọa chết đày,
Mượn tân thanh phổ khúc đoạn trường, thương bao phận hồng nhan hoa trôi bèo dạt!

30. Cảnh tang thương triền miên tám  hướng, nơi ta bà bao người lạc chợ, trôi sông,
Khói binh đao mờ mịt chín tầng, xương vô định bấy kẻ chôn nghiêng, liệm sấp!

31. Sổ đoạn trường hàng hàng lớp lớp, nào giai nhân, nào tài tử, lượn sóng đời dập cuồn cuộn oan khiên,
Đường định mệnh lối lối thênh thênh, nào nghĩa khí, nào trung can, dây oan nghiệt kết trùng trùng u uất!

Ôi!

32. Mang chữ “mệnh” thì nơi đâu không phải bến Tiền Đường?
Chẳng chữ “duyên” làm sao dễ náu nương Quan Âm các?

33. Phận bạc luôn đọa đày bậc khoát luận cao đàm, tú khẩu cẩm tâm,
Con tạo khéo ghét ghen kẻ ngọc diện hồng nhan, thiên hương quốc sắc!

34. Dù bể tang thương trùng trùng gió bão, đầu bút thần vẫn tỏa ánh hào quang,
Ngặt lửa sa trường ngun ngút núi sông, câu khí tiết làm đau lòng ngọc phác!

35. Đâu má hồng mười lăm năm trường đoạn, mà bên tình, bên hiếu luôn sắt son cùng sông núi thênh thênh?
Đâu danh nhân chịu nửa kiếp phong trần, mà chữ tiết, chữ nhân vẫn mênh mang như trăng sao vằng vặc?

Đáng xứng danh:

36. Vô tiền nghệ sĩ aó bố hài gai,
Khoáng hậu thi hào lòng son dạ sắt.
37. Không phải nguyệt mà sáng trong hơn nguyệt; trong rừng bảo điển vĩ nhân, cụ Tiên Điền xứng danh “vạn đại thi hào” .
Chẳng là hoa lại thơm ngát hơn hoa; trong vườn phong tình cổ lục, truyện Thúy Kiều đáng gọi “kỳ thư tuyệt tác”.

38. Cạnh muôn hoa, vua mẫu đơn chẳng muốn tỏa hương, (7)
Giữa bầy chim, chúa phượng hoàng đâu cần khoe sắc! (8)

39. Đẹp làm sao! Nhân dân ngưỡng mộ ngài với biết bao lời châu ngọc thiết tha,
Xứng làm sao! Thế giới tôn vinh ngài cùng trăm linh bảy danh nhân lỗi lạc! (9)

Ôi! Hỡi ôi!

40. Đang cơn mây tạnh ngờ đâu gió thổi ngậm ngùi,
Trong lúc trời quang bỗng dưng mưa bay lất phất!

41. Thu vừa chớm mà vùng đất Tiên Điền (10) mây nhuộm âm u,
Chướng chưa về mà dặm đường Nghi Xuân (10) lá rơi lác đác!

42. Đao định mệnh luôn cướp đường sinh tử, dù thân chẳng còn mà tiếng để danh lưu,
Trận phong lôi sao át sấm tài danh, nên đèn vẫn tỏ dù mưa lùa gió tạt.

43. Lẽ vô thường lại đùa cợt nhân sinh,
Đò li biệt luôn đưa sầu vạn vật!

44. Ơn văn hào tợ trái đồi trái núi, chừng như nước lấp đại dương,
Lời hậu sinh như hạt bụi hạt sương, cầm bằng cát rơi sa mạc!


Hôm nay,

45. Chưa ba trăm năm, mà cả non sông đã đổ lệ vì người nghệ sĩ phong lưu,
Bởi khắp bốn cõi, cứ mỗi tấm lòng đều nghiêng mình trước một thi hào uyên bác.

46. Dù văn chương, dù son phấn, khi thác rồi hậu thế còn ghi,
Dù vô mệnh, dù hữu thần, lúc lìa đời người sau vẫn nhắc.(11)

47. Chén rượu quý kính dâng người tài đức, lượng thứ chúng hậu sinh ý thiển lời thô,
Nén nhang thơm tưởng nhớ bậc cao hiền, cung thỉnh đấng tiền bối lòng thành lễ bạc.

Thượng hưởng!

                                                                                 KHA TIỆM LY

Chú thích:

(1) Đỗ, Vương: Đỗ Phủ, Vương Bật

(2) Khổng, Mặc: Khổng Tử, Mặc Tử

(3) Sau khi đánh thắng Hai Bà Trưng. Mã Viện dựng trụ đồng ở biên giới với hàng chữ khắc trên đó: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (nếu trụ đồng mà bị gãy thì Giao Chỉ bị diệt vong”

(4)Trộm ý của hai câu:
“Đồng trụ chí kim đài dĩ lục,
Đằng giang tự cổ huyết do hồng”
(Trụ đồng đến nay rêu còn xanh biếc,
Nước sông Bạch Đằng từ xưa đến giờ vẫn còn đỏ au)

(5) Cao lương: Trong “cao lương mĩ vị”, chỉ thức ăn ngon. Nguyên câu trộm ý 2 câu trong bài Phản Chiêu Hồn của cụ Tiên Điền:
“Bất lộ trảo nha dữ giác độc,
Giảo tước nhân nhục cam như di!”
(Không để lộ ra nanh vuốt và sừng (có nọc) độc
Mà cắn xé thịt người ngọt như kẹo như đường)

(6) Ban Siêu: Vị tướng tài thời Đông Hán. Bình định Tây Vực hồi 40 tuổi, đến 71 tuổi mới trở về kinh đô Lạc Dương; lúc đó đầu ông đã bạc trắng .

(7) (8): Mẫu đơn là chúa loài hoa; Phụng hoàng là chúa loài chim (theo quan niệm xưa)

(9) Ngày 25/10/2013, tại kỳ họp lần thứ 37 của Đại Hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) họp ở Paris đã chính thức ban hành Nghị quyết số 37C/15 phê chuẩn Quyết định số 191EX/32 và 192EX/32, nhất trí vinh danh Đại thi hào Nguyễn Du cùng với 107 danh nhân văn hóa toàn thế giới. Theo đó, hoạt động tôn vinh được triển khai ở Việt Nam và tại các nước trong cộng đồng UNSESCO (niên độ 2014 - 2015).
(Nguồn: https://hanam.gov.vn/…/Danh-nhan-van-hoa-the-gioi--%C4%90ai…)

(10) Làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Tỉnh Hà Tĩnh là quê hương của cụ Nguyễn Du (mộ cụ nằm tại làng Tiên Điền)

(11) Trộm ý 2 câu trong bài “Độc Tiểu Thanh Kí”:
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.”
( Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết .
Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở).