Tác giả Đỗ Chiêu Đức
PHIẾM
LUẬN: HỎA LÀ LỬA
Theo Phật giáo, cơ thể con người là do Tứ Đại : Phong
Thủy Hỏa Thổ, tức là Đất Nước Gió Lửa kết hợp lại mà thành, nên bản thân con
người đã có một phần tư là lửa ở trong đó rồi, ngọn lửa đó cứ âm ỉ mãi trong
ngũ tạng lục phủ tạo nên sự ham muốn mãnh liệt mà ta gọi là Lửa Dục Vọng. Trong
văn chương Phật giáo thì gọi nhẹ nhàng hơn : Lửa Lòng. Như cụ Nguyễn Du đã diễn
tả tâm trạng của Thúy Kiều khi tu ở Quan Âm Các:
Cho
hay giọt nước cành dương
Lửa
Lòng tưới tắt mọi đường trần duyên…
và như lời của Thúy Kiều đã phân bua với Vương Viên
Ngoại khi ông muốn nàng từ giả sư Giác Duyên để theo mọi người về nhà đoàn tụ:
Sự
đời đã tắt Lửa Lòng,
Còn
chen vào chốn bụi hồng mà chi ?!
Chuyện tình "Lan và Điệp "của Việt Nam ta có thể sánh ngang với chuyện tình "Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài" của Trung Hoa xưa, và còn có phần vượt trội hơn về mặt bình dân, được phổ biến rộng rãi trong mọi tầng lớp quần chúng nhân dân. Nhớ khi xưa, yêu một cô bạn cùng trường, tôi cũng lấy chuyện tình Lan và Điệp để ví dụ:
Anh
với em như Điệp với Lan,
Thanh
mai trúc mã đẹp muôn vàn.
Vỏ
vẻ thơ Đường anh đọc thấy,
Chuyện
mình sao giống khúc Trường Can...
Chả trách mối tình đầu học sinh tan vỡ theo khói mây
như bao mối tình đầu khác !
Trong Cung Oán Ngâm Khúc Nguyễn Gia Thiều cũng đã gọi ngọn lửa âm ỉ đốt trong lòng người cung nữ là Tâm Hỏa với các câu:
Ngọn
tâm hỏa đốt dàu nét liễu,
Giọt
hồng băng thấm ráo làn son.
Lại
buồn đến cảnh con con,
Trà
chuyên nước nhất, hương đùn khói đôi !
Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du cũng mượn chữ Tâm Hỏa
nói thành "Lửa Tâm" để tả ngọn lửa ghen tuông trong lòng của Hoạn Thư
là:
Lửa
Tâm càng dập càng nồng,
Trách
người đen bạc ra lòng trăng hoa.
Ví
bằng thú thật cùng ta,
Cũng
dung kẻ dưới mới là lượng trên !
Hỏa là Lửa, và là chữ Tượng Hình của một trong 214 bộ
của Chữ Nho... Dễ Học, theo diễn tiến của chữ viết như sau:
Giáp Cốt văn Đại Triện
Giáp Cốt văn Đại Triện
Ta thấy:
Giáp Cốt Văn là hình tượng của một ngọn lửa được vẽ cách
điệu để tượng trưng cho lửa, qua Đại Triện, Tiểu Triện dần dần diễn tiến thành
chữ viết, cho đến Chữ Lệ thì đã định hình giống như chữ viết hiện nay HỎA 火 là LỬA. Có tất cả 407 chữ được ghép bởi bộ Hỏa nầy để
chỉ những gì có liên quan tới Lửa như đèn đóm đuốc nến, nóng nực sáng sủa, nấu
nướng chiên xào ... đều thuộc bộ Hỏa cả , Cho thấy là Lửa quan trọng biết bao
trong đời sống của chúng ta.
Lửa cháy đỏ rực, hừng hực với ngọn lửa đỏ bốc cao là
Dương Hỏa, còn lửa cháy âm ỉ với ngọn lửa xanh dịu dàng chập choạng là Âm Hỏa.
Nhưng dù âm dù dương thì lửa vẫn cho ánh sáng và sức nóng có thể thiêu đốt hoặc
làm thay đổi hình dạng của những vật chất khác, kể cả Vàng cũng bị chảy thành
chất lỏng, mặc dù ông bà ta nói " Vàng thật không sợ lửa ", cũng là để
chỉ màu sắc của vàng không hề bị suy suyển mà thôi.
Theo Tử Vi đẩu số thì có 6 hình thức lửa, đó là :
Thiên Thượng Hỏa 天上火
là Lửa trên trời là Lửa của Mặt Trời, Tích Lịch Hỏa 霹靂火 là Lửa Sấm sét là Lửa của điện chớp, Sơn
Đầu Hỏa 山頭火 là Lửa đầu núi là Núi lửa,
Sơn Hạ Hỏa 山下火 là Lửa dưới núi
là Lửa cháy rừng, Lô Trung Hỏa 爐中火
là Lửa trong lò là Lửa nấu ăn và Phúc Đăng Hỏa 覆燈火
là Lửa của cây đèn dầu là Lửa dùng để thắp sáng. Nên được chia làm hai nhóm :
* Thiên
Thượng Hỏa 天上火, Tích Lịch Hỏa 霹靂火, Sơn Đầu Hỏa 山頭火 thì không kỵ thủy, không sợ nước, có nước
lại càng nổ lớn cháy lớn hơn.
* Sơn Hạ Hỏa
山下火, Lô Trung Hỏa 爐中火, Phúc Đăng Hỏa 覆燈火 thì gặp nước, gặp mưa đổ xuống là tắt
queo ngay!
Theo thần thọai xưa thì Lửa có 2 nguồn gốc như sau :
* Toại
Nhân 燧人, hay Toại Nhân thị 燧人氏, là người sáng tạo ra lửa trong Thần thoại
Trung Hoa cổ đại, có thuyết xưng ông là một trong Tam Hoàng Ngũ Đế. Theo Cao
Đài từ điển, Toại là khoan gỗ lấy lửa, còn Nhân là người.
Theo Sách Hàn Phi tử - Ngũ Đố chép rằng: " Thời
thượng cổ, dân ăn quả, củ, thịt sống nên bị đau bụng, bệnh tật rất nhiều. Có
thánh nhân bổ củi để lấy lửa nấu chín thức ăn, dân ca ngợi tôn làm vua trong
thiên hạ, hiệu là Toại Nhân thị ". Nhờ có Toại Nhân, loài người có lửa, không
còn đứng ngang hàng với cầm thú như trước nữa.
* Chúc
Dung 祝融, vốn tên là Trọng Lê 重黎, sáng tạo ra cách nấu qua vật cách nhiệt
như: nồi đất, ấm đất, niêu đất; khiến món ăn có mùi vị và thơm ngon hơn, ông lại
nghiên cứu ra các chất để khi cần là có lửa ngay mà khỏi phải dùi cây hay mài
đá nữa. Ví dụ như ông ép dầu lạc (dầu phọng) tích trữ làm chất cháy, hoặc chế
ra ngọn đuốc để có thể giữ lửa và di chuyển được trong bóng tối. Ông giữ chức Hỏa
Chính cai quản về việc chế tạo và sản xuất lửa trong thiên hạ với danh hiệu là
Chúc Dung 祝融, được dân gian
truyền tụng như là một ông Thần Lửa sau Toại Nhân.
Từ sau khi La Quán Trung viết quyển Tam Quốc Chí có
nhân vật Chúc Dung Phu Nhân là vợ của Man Vương Mạnh Hoạch, thì lại có thuyết
cho thần lửa Chúc Dung là phái nữ, và có lẽ vì thế mà ta có từ "Bà Hỏa" để chỉ lửa củi hỏa hoạn chăng ?! Sau PHONG DI là "Dì Gió",
ta còn có CHÚC DUNG là "Bà Hỏa" nữa, cho thấy từ ngàn xưa Phái Nữ
đã không phải là phái yếu đuối tầm thường !
Theo Dịch Lý Bát Quái về âm dương ngũ hành thì NAM
PHƯƠNG BÍNH ĐINH HỎA. Bính là Dương hỏa, Đinh là Âm hỏa và đều thuộc Phương
Nam, ăn với mùa hè là mùa nóng nực nhất trong năm, mùa của "Lựu phun lửa
hạ..." thích hợp với các loài hoa màu đỏ rực như Hoa Phượng, Hoa Đỗ quyên, hoa Thạch lựu... và như
cụ Nguyễn Du đã chuyển mùa trong Truyện Kiều khi ông cho cô Kiều đi tắm:
Dưới
trăng quyên đã gọi hè,
Đầu
tường lửa lựu lặp lòe đâm bông.
Buồng
the phải buổi thong dong,
Thang
lan rủ bức trướng hồng tắm hoa.
Hỏa là lửa, lửa chẳng những mang lại sự ấm áp, mang lại
ánh sáng cho con người, mà còn đưa con người ra khỏi cảnh sống hoang sơ ăn lông
ở lổ lúc ban đầu nữa. Lửa còn mang lại những niềm vui, hạnh phúc cho con người
khi trời đông gía rét mà được quây quần bên bếp lửa hồng ấm cúng của gia đình
như lời ca trong bài "Về Dưới Mái Nhà" của Y Vân và Xuân Tiên :
“...Người
ơi, mau về đây,
về
bên bếp hồng tay cầm tay...
Cười
lên chan chứa tươi làn môi ...
nhớ
phút vui đêm nay !
và...
...
Nhà ai trong chiều nay
Lửa
đêm đốt hồng vai kề vai
Và
nghe câu hát yêu đời ai
Hát
mãi sao không nguôi...”
... và cái "bếp hồng" ấm áp hạnh phúc kia
theo mãi trong tâm thức của những con người tha phương cầu thực như chúng ta
mãi mãi cho đến trọn đời:
Ơi,...
nỗi lòng chan chứa,
Hỡi
người ơi ... biết sao cho vừa... tình thương... của bếp hồng soi !
và bâng khuâng ray rức thiết tha hơn với ...
...Chiều
nay mưa còn rơi
Chiều
nay bếp hồng đang còn say
Chiều
nay vui sống trong tình yêu.
Nhớ
phút vui không nguôi.
Nào
ai xa ngàn nơi.
Kìa
bao mái nhà đang chờ ai
Kìa
bao bếp hồng đang còn tươi
Thương
nhớ lên đầy vơi...”
Ôi, quả là những lời ca ray rứt, não nuột làm xúc động
lòng người xa xứ !... Bài hát "Về Dưới Mái Nhà" đã ăn sâu vào tâm
thức của tôi khi tôi vừa mới lớn, khoảng cuối thập niên năm mươi của Thế Kỷ trước,lúc
Tổng Thống Ngô Đình Diệm mới về nước chấp chánh, nên... đến bây giờ định cư
trên đất Mỹ nầy, lời của bài hát càng âm ỉ râm rang hơn làm ray rức mãi lòng
người viễn xứ như tôi, nhất là vào những ngày cận Tết với trời đông giá lạnh...
Trong thi ca cổ cũng vẽ nên một bức tranh ấm áp của những
người bạn xa quê tìm đến với nhau trong những đêm xuân cận Tết với các nét chấm
phá thật nên thơ như trong bài Hàn Dạ ( đêm lạnh ) của Đỗ Tiểu Sơn đời Tống :
寒夜客來茶當酒, Hàn dạ khách lai trà đương tửu,
竹爐湯沸火初紅。 Trúc lô thang phất hỏa sơ hồng
尋常一樣窗前月, Tầm thường nhất dạng song tiền nguyệt
才有梅花便不同。 Tài hữu mai hoa tiện bất đồng.
才有梅花便不同。 Tài hữu mai hoa tiện bất đồng.
Có nghĩa :
Đêm
đông bạn đến rượu thay trà,
Quanh
bếp than hồng nước mới pha.
Bên
cửa thường ngày trăng vẫn chiếu,
Thêm
cành mai nữa, nhớ quê xa !...
Hỏa là Lửa, ngoài nghĩa Bếp Lửa ra, Hoả còn có nghĩa là
Đèn Đóm, đèn đuốc thắp lên ban đêm để vui chơi trong cung như nàng cung nữ thất
sủng nhìn về nơi có ánh đèn lửa tiệc tùng mà tủi thân tủi phận :
火照西宮知夜飲, Hỏa chiếu Tây cung tri dạ ẩm
分明復道奉恩時。 Phân minh phúc đạo phụng ân thì.
火照西宮知夜飲, Hỏa chiếu Tây cung tri dạ ẩm
分明復道奉恩時。 Phân minh phúc đạo phụng ân thì.
(Tây
Cung Thu Oán)
Có nghĩa :
Lửa
chiếu Tây cung đang dạ tiệc,
Rõ
ràng nơi đó hưởng ơn vua !
...và buồn như nàng cung nữ trong Cung Oán Ngâm Khúc của
Ôn Như Hầu :
Hóa
công sao khéo trêu ngươi,
Bóng
đèn tà nguyệt tẻ mùi ký sinh.
... cũng là
đèn lửa nhưng buồn vui có khác, và không chỉ có buồn vui, có những ánh đèn còn
rất nên thơ, như đèn của lửa chài trong Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế :
江楓漁火對愁眠 Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
mà Tản Đà đã diễn Nôm rất nên thơ là :
Lửa
chài cây bến sầu vương giấc hồ
... hay như hai ba đóm lửa lặp lòe của một bến đò xa
xa trong đêm tối trong bài Đề Kim Lăng Độ của Trương Hỗ đời Đường :
金陵津渡小山樓, Kim Lăng tân độ tiểu sơn lâu
一宿行人自可愁。 Nhất túc hành nhân tự khả sầu.
潮落夜江斜月裡, Triều lạc dạ giang tà nguyệt lý
兩三星火是瓜州。 Lưỡng tam tinh hỏa thị Qua Châu
Có nghĩa :
Kim
Lăng bến nước cạnh đồi cao,
Lữ
khách qua đêm tự cảm sầu.
Triều
xuống trăng mờ chênh chếch chiếu,
Lặp
lòe đóm lửa ấy Qua Châu !
Trong cảnh đêm khi nước thủy triều đang xuống dưới ánh
trăng nghiêng nghiêng mờ chiếu, thấp thoáng hai ba đóm lửa đèn nhà ai như những
vì sao lạc kia, chính là bến đò Qua Châu đối diện đó vậy ! Qủa là một bức tranh
chấm phá với cảnh đèn đóm trong đêm vô cùng nên thơ và thi vị !
Lửa dịu dàng là thế, ấm áp là thế, nên thơ là thế...
nhưng khi nổi "tam bành" thì "Bà Hỏa" hoạn đến không
buông tha cho ai cả, không buông tha cho vật chất nào cả, mà thiêu rụi sạch
sành sanh. Bão tố giật xập nhà cửa, nước lụt cuốn trôi nhà cửa, nhấn chìm ghe
xuồng... nhưng cũng còn vớt vát lại được chút đồ đạc còn trôi nổi trên sông, chớ
sau một cơn hỏa hoạn thì tất cả còn lại chỉ là đống tro tàn của dĩ vãng mà thôi
!
Lửa còn đi liền với chiến tranh với các từ Binh Lửa,
Khói Lửa, Tên lửa, Đạn lửa hay Lửa Đạn là vùng lửa cháy đạn bay, là nơi tuyến đầu,
nơi mà người ta bắn giết lẫn nhau, là các vùng Hỏa Tuyến 火線, nơi mà ban đêm luôn có " Những đóm
mắt Hỏa Châu 火珠 " soi sáng
chiến trường . Tội nghiệp cho tuổi trẻ
Miền Nam, tội nghiệp cho các anh lính trẻ Việt Nam Cộng Hòa như tôi " xếp bút nghiên theo việc binh đao
" để đêm đêm phải tâm sự cùng "Những ánh mắt Hỏa Châu" như trong
bài hát của Nhạc sĩ Hàn Châu:
Có
những đêm dà ... anh ngồi... nhìn hỏa châu rơi...
Nghe
vùng tâm tư... cháy đỏ... xoay ngang lưng trời ...
Những
đóm mắt hỏa châu, bừng lên trong màn tối,
Như
mắt em sáng ngời, theo anh đi ngàn lối...
Những
đêm không ngủ... anh ngồi tâm sự... cùng hỏa...châu rơi...
Quả là tội nghiệp cho tuổi trẻ của Miền Nam khoảng thập
niên 60-70 thế kỷ trước , tuổi trẻ của Việt Nam nói chung đã bị cuốn vào vòng
chiến tranh ý thức hệ một cách oan uổng...
Ngày xưa, gọi chiến tranh là Phong Hỏa 烽火, là những lửa khói bốc lên do chiến loạn,
mà cũng là những lửa khói được đốt lên để báo hiệu chiến tranh đang diễn tiến đến
nơi nào, là những Phong Hỏa Đài 烽火台
dùng để cảnh báo cho dân chúng hậu phương biết trước mà tránh xa và nhất là để
cho quan binh hậu phương biết đường mà ứng phó. Nên Phong Hỏa là chiến tranh
như Đỗ Phủ đã viết về chiến loạn do An Lộc Sơn gây ra :
Phong
Hỏa liên tam nguyệt 烽火連三月
Là chiến tranh kéo dài suốt ba tháng liền... đã gây ra
rất nhiều chết chóc khổ đau tang thương khắp chốn, huống chi cuộc chiến Nam Bắc
Việt Nam kéo dài những ba mươi năm, nhân dân cả nước phải hứng chịu biết bao
nhiêu là đau thương đồ thán do bom đạn gây ra!
Hỏa là Lửa, là Đèn đuốc là Đăng Hỏa 燈火. Hỏa là Tinh Hỏa 星火 là những vì sao lắp lánh trên trời, là Hỏa
Tinh 火星 một trong 4 hành tinh của
Thái Dương Hệ, có tên la-tinh là Mars. Theo khoa học giả tưởng trên Hỏa tinh có
Người Hỏa Tinh và có sự sống như trên Trái đất. Hoả Tiển 火箭 là Tên Lửa, vừa là vũ khí sát thương, vừa
là phương tiện chuyên chở trong và ngoài không gian. Hỏa Thạch 火石 là Đá lửa, đá dùng để đánh lửa. Hỏa Sơn 火山 là núi lửa, là Hỏa Diệm Sơn 火焰山. Hỏa Khanh 火坑
là Cái Hầm Lửa, từ dùng để chỉ các cô gái điếm sống cuộc sống đày đọa đồi trụy
ngột ngạt như bị nhốt trong hầm lửa vậy, nên cụ Nguyễn Du đã gọi là "Lửa Nồng"
khi cho cô Kiều phân tách để Thúc Sinh hiểu được là sống cảnh lẻ mọn bị vợ lớn
ghen tuông hành hạ (giấm chua) còn tội nghiệp hơn là sống đời kỹ nữ nữa:
Cúi
đầu luồn xuống mái nhà
Giấm
Chua lại tội bằng ba Lửa Nồng !
Hỏa còn dùng để chỉ vũ khí của quân đội như từ Hỏa
Thương 火槍 là Súng Ống, Hỏa Dược 火藥 là Thuốc súng, Hỏa Lực 火力 là sức mạnh của vũ khí quân đội, Hỏa Tốc 火速 là Nhanh Chóng, Hỏa Công 火攻 là Tấn công bằng lửa, dùng lửa để Hỏa
Thiêu 火燒 đốt cháy quân địch, như
trận Hỏa Thiêu Xích Bích 火燒赤壁
của Khổng Minh Gia Cát Lượng đã đốt tiêu 81 vạn quân của Tào Tháo trên dòng sông
Xích Bích vậy. Cuối cùng để nuôi sống quân đội hàng ngày còn có anh Hỏa Đầu
Quân 火頭軍 mà sau nầy trong Quân lực
Việt Nam Cộng Hòa gọi là Lính Nhà Bàn, còn Bộ đội Bắc Việt thì gọi là Anh Nuôi.
Ngoài trận hỏa công để đời nổi tiếng trong lịch sử thời
Tam Quốc ra , còn một trận hỏa công rất đặc sắc nữa ở thời Xuân Thu Chiến Quốc,
đó chính là Hỏa Ngưu Trận 火牛陣.
Theo Sử Ký Điền Đan Liệt Truyện...
Đời Yên Chiêu Vương, tướng Yên là Nhạc Nghị đem binh
đánh Tề. Tướng Tề là Điền Đan cố giữ thành Tức Mặc. Năm 279 trước Công Nguyên,
Yên Huệ Vương nối ngôi, Điền Đan dung kế ly gián để Yên vương dùng tướng Kỵ Kiếp
thay cho Nhạc Nghị, đoạn lại dùng kế trá hàng để Kỵ Kiếp không phòng bị, rồi
đang đêm gom hết cả ngàn trâu bò trong thành, buộc gươm đao nhọn vào sừng trâu,
đuôi trâu buộc cỏ rơm có tẩm dầu, rồi đốt lửa lên, trâu bị nóng cắm đầu cắm cổ
phóng về phiá quân Yên, lại cho 5000 lính cảm tử xung phong giết tới. Quân Yên
đại bại, Kỵ Kiếp chết trận, Điền Đan thừa thế xua quân đánh chiếm lại hơn 70
thành đã bị mất.
Vì tích Hỏa Ngưu Trận ở trên mà trong văn học Việt Nam
có một bài thơ vịnh Con Trâu Già rất hay như sau:
Một
nắm xương khô, một nắm da
Bao
nhiêu cái ách đã từng qua
Đuôi
cùn biếng vẫy Điền Đan hỏa
Tai
nặng buồn nghe Nịnh Thích ca
Sớm
thả đồng đào ăn đủng đỉnh
Tối
về chuồng quế thở nghi nga
Có
người toan giết tô chuông mới
Ơn
đức vua Tề, lại được tha.
Bài thơ trên có người cho là của cụ Huỳnh Mẫn Đạt, có
người cho là của Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến. Nhưng dù của ai thì đây vẫn
là một bài thơ hay.
Hỏa là Lửa, nhưng Hỏa Kê 火雞 không phải là Con Gà Lửa mà là con Gà
Tây, bình dân gọi là con Gà Lôi, ở Mỹ gọi là Turkey. Lễ Gà Lôi là Lễ Tạ Ơn của
Mỹ (ngày Thứ Năm của tuần thứ 3 trong tháng 11), hằng năm dân Mỹ phải "hỏa
thiêu" đến mấy triệu con Hỏa Kê nầy để ăn mừng. Hỏa Trùng còn gọi là Huỳnh
Hỏa Trùng 螢火蟲, không phải là
con sâu lửa mà là con Đom Đóm với ánh đèn lân tinh chớp sáng phía sau đuôi trên
các ngọn cây bần ở quê tôi. Cũng như Hỏa Hầu 火候
không phải là con Khỉ Lửa, mà là chỉ cái tiêu chuẩn mức độ đạt đến cở nào. Như
hấp bánh còn thiếu hỏa hầu nên bánh chưa thật chín thật ngon, Công phu luyện
chưa tới hỏa hầu nên chặt cục gạch còn chưa bể hai... Hỏa Hầu cũng không phải
là Tề Thiên Đại Thánh 齊天大聖,
vì Tôn Ngộ Không 孫悟空
là con Thạch Hầu 石猴,
con khỉ từ trong đá nứt ra, chứ không phải là con khỉ lửa; chỉ sau khi bị Thái
Thượng Lão Quân đốt trong lò Bát quái bảy bảy bốn mươi chín ngày ra, thì Tôn Ngộ
Không mới có được Hỏa nhãn Kim tinh 火眼金睛,
có nghĩa : Con mắt rực như lửa và tròng mắt sáng như vàng có thể nhìn thấu mọi
sự vật do yêu quái biến hình. Nhưng Hỏa Xa là Xe Lửa, Hỏa Long 火龍 thì lại là con rồng lửa chính hiệu có màu
đỏ rực như lửa. Gần đây, người Hoa lại dùng từ Hỏa Oa 火鍋 là Cái Nồi Lửa để chỉ Cái Lẩu (cái Cù
Lao) mà ta thường ăn khi có tiệc.
Theo phép tạo chữ Nho ngày xưa, một chữ Hỏa 火 là Lửa; 2 chữ Hỏa chồng lên nhau là Viêm 炎 là Nóng, ta có từ kép Viêm Nhiệt 炎熱 là Nóng nực; 3 chữ Hỏa ghép lại thành chữ
Diễm 焱 là Lửa cháy rực rỡ, đọc
là Diệm thì đồng âm với từ Hỏa Diệm Sơn 火焰山
là Núi Lửa, HỎA DIỆM SƠN còn là từ dùng để chỉ các bà các cô có thân hình với 3
vòng thật "nóng", thật gợi cảm, thật bốc lửa !
Đều là những Hỏa Diệm Sơn 火 焰 山
Những thành ngữ có chữ Hỏa 火 mà Hoa Việt đều thông dụng là:
* Hỏa thượng
gia dầu 火上加油 : Ta nói là "Lửa
cháy thêm dầu" hay là "Đổ thêm dầu vào lửa", ý nói đã không chửa
cháy mà còn làm cho nó cháy lớn thêm hơn !
* Hỏa hải đao
sơn 火海刀山 : Ta nói là "Núi
đao biển lửa" để chỉ những nơi vô cùng nguy hiểm, những chỗ mất mạng như
chơi !
* Can sài liệt
hỏa 乾柴烈火 : là Củi khô lửa mạnh,
ta nói là "Lửa gần rơm" lâu ngày cũng bén.
* Sấn hỏa đả kiếp
趁火打劫 : Thừa lúc lửa cháy để
cướp đồ của người khác, ta nói là " Thừa nước đục thả câu".
* Phong hỏa
liên niên 烽火連年
: Chiến tranh năm nầy liền năm khác, ta nói là " Chiến tranh dai dẳng"
như cuộc nội chiến của Việt Nam ta ngày xưa làm cho quân dân đều chán ngán.
Trong Tăng Quảng Hiền Văn cũng có những câu ngạn ngữ rất
thực tế như :
Viễn
thủy nan cứu cận hỏa, 遠水難救近火,
Viễn
thân bất như cận lân. 遠親不如近鄰。
Có nghĩa :
Nước
xa không thể cứu được lửa gần,
Bà
con xa không bằng láng giềng gần.
Hay như câu :
Thành
môn thất hỏa, 城門失火,
Ương
cập trì ngư. 殃及池魚。
Có nghĩa :
Cửa thành bị lửa cháy, bị hỏa hoạn, thì làm cho lũ cá ở
trong ao cũng bị tai ương, bị vạ lây, vì... người ta sẽ vét hết nước ở trong ao
để chửa lửa, nên cá sẽ không còn nước để sống nữa ! Giới bình dân gọi là :
"bị văng miểng", bị họa lan can !
Hỏa là Lửa cũng như Mộc là Cây là 2 nhân tố không thể
thiếu trong đời sống con người. Hỏa là Đăng Hỏa 燈火
là Đèn đóm để thắp sáng; là Hỏa Lô 火爐
là cái Lò lửa để nấu ăn. Trong thời đại văn minh hiện nay ta còn có Điện Lô 電爐 là Lò điện, Mai Lô 煤爐 là Lò Gas... Lửa còn dùng để sưởi ấm, nấu
nướng chiên xào, chế biến thức ăn, xúc tác phản ứng hóa học trong phòng thí
nghiệm, để luyện kim... kể cả những hoạt động vui chơi như Bắn pháo bông, Đốt lửa
trại... đều không thể xa rời được lửa. Thử nghĩ nếu một ngày không có lửa thì
cuộc sống sẽ ra sao và thế giới nầy sẽ ra sao ?!
Những đêm nguyện cầu, những đêm thắp nến, đều nhờ vào
ngọn lửa của ánh nến để thắt chặc thêm tình đoàn kết, để ung đúc thêm ý chí đấu
tranh, để càng hạ quyết tâm phấn đấu hơn để đạt mục đích cuối cùng. Ta hãy nghe
lại lời của bài hát Nhạc Rừng Khuya mà nhạc sĩ Lam Phương đã sáng tác khi ông
còn chưa đầy 20 tuổi:
...
Bập bùng bấp bung ...đêm khuya thêm não nùng...
Lửa
càng bừng cháy, siết tay nhau... chúng ta cùng múa
quanh
lửa hồng... cháy trong rừng khuya
và...
...
Lửa cháy, hăng lửa giục lòng dân... đoàn kết
Lửa
reo, vang lửa gào lòng ta... nguồn sống
Lửa
Tự Do... muôn năm vẫn reo... rừng ơi !
Trở lại với đề tài lúc ban đầu, theo quan niệm của Phật
Giáo, cơ thể con người là do TỨ ĐẠI : Đất Nước Gió Lửa khi đã đủ cơ duyên thì kết
hợp lại mà thành, nên khi chết đi thì thân Tứ Đại sẽ trả về cho Tứ Đại. Nhớ năm
1963 khi Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu xong thì còn lại ... trái tim vẫn
không chịu cháy trong lò thiêu lên đến
4000 độ C tại Đài hỏa táng An dưỡng địa ở Phú Lâm (Sài Gòn). Thì ra, vẫn có những
cái mà lửa không thể thiêu rụi được, đó là Trái Tim của đấu tranh, tức là Ý Chí
Đấu Tranh thì không có ngọn lửa nào thiêu rụi được cả ! Xin được mượn 2 câu thơ
sau đây trong bài thơ ca ngợi Hoà thượng Thích Quảng Đức để kết thúc cho bài
phiếm luận nầy :
Thân
Tứ Đại trả về Tứ Đại,
Tim
của ngài tồn tại thế gian !
Lửa là Hỏa và Hỏa là Lửa. Lửa thiêu rụi tất cả, nhưng
không thể thiêu rụi được Tinh thần đoàn kết và ý chí đấu tranh !
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét