BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trần Duệ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trần Duệ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 5 tháng 6, 2020

NHỮNG NGƯỜI Ở VEN RỪNG - Trần Duệ


             
                         Nhà văn Trần Duệ


NHỮNG NGƯỜI Ở VEN RỪNG
                                               Trần Duệ 
     
Cuối cùng Mai cũng lấy được chồng. Đám cưới được tổ chức khi cô gần ba chục tuổi, chấm dứt cái từ “gái ế” mà bà con gọi lén đã nhiều năm qua. Xóm làng đều vui, riêng Mai thì không ai đoán được. Cô sống với người mẹ đã già yếu. Ở miền núi, người ít, đất rừng mênh mông nhưng phần lớn đều của nhà nước. Đất ở hẹp, người đông nên nhiều ngôi nhà nằm ở cạnh nhau trông không giống cảnh vùng cao ngày trước. Nhà của Mai nằm ở cuối thôn, có khu vườn khá rộng, xa nơi đông người. Vào những đêm tối trời, ngôi nhà có ánh điện mờ mờ, nằm khuất dưới vườn cây, trông cũng buồn thiệt. Mai lấy chồng nhưng không theo chồng về làm dâu. Chồng của Mai tên Huy, lớn hơn Mai khoảng bốn, năm tuổi. Nghe nói anh lấy vợ trễ do mãi đeo đuổi chuyện làm thơ, nhưng thực ra ở đây chưa ai từng nghe hoặc đọc thơ của chồng Mai. Gia đình Huy ở xã kế bên, anh em đông, nên chuyện Huy đi ở rể cũng không khiến mọi người bận tâm cho lắm. Một năm sau Mai sinh con gái. Bà con thấy mừng, vì tương lai trong xóm sẽ bớt được một thằng hút, chích, đua xe... Ba năm nữa, vợ chồng Mai ly hôn, bà con lại thấy vui vì xóm làng đã bớt được một thằng đàn ông suốt ngày say xỉn. Bà con đang cần một người làm ra lúa, ra bắp chứ không cần một người làm thơ.

Thứ Hai, 1 tháng 6, 2020

NHỮNG NGƯỜI NHẢY TÀU - Trần Duệ


          
                                            Nhà văn Trần Duệ


NHỮNG NGƯỜI NHẢY TÀU
                                     Trần Duệ
                                                                                
Đêm. Rừng cao su u tịch. Bóng đen phủ kín cả vùng trời. Cố nhướng mắt nhìn nhưng tôi không thể nào thấy được những hàng cây cao su đứng thẳng tắp trước mặt; chỉ thi thoảng vài tiếng tắc kè kêu và đôi tiếng lào xào của vòm cây tối thẫm. Trời như chuẩn bị đổ mưa, những ánh chớp lóe lên ở phía xa xa cũng đủ soi chiếu tới ngôi mộ được quét vôi trắng nằm ở giữa vườn. Người chủ trang trại đang nằm cái võng kế bên tôi cho biết, đó là mộ của một thanh niên bị voi đạp chết, nhưng không có thân nhân nên dân địa phương chôn ngay tại nơi thọ nạn. Sau khi mua lại mảnh đất này thì anh xây mộ, hàng đêm đều cho công nhân thắp nhang và thành tâm cầu mong người đã khuất phù hộ cho mình được yên ổn làm ăn. Đó quả là một cảnh tượng rùng rợn, ma quái, nhất là đối với những người chưa quen ngủ trong rừng cao su vào ban đêm như tôi.

Thứ Năm, 28 tháng 6, 2012

CHUYỆN XÓM NÚI

                       

                                                                                                            Tác giả: TRẦN DUỆ

         Không biết vùng đất nơi đây tên gọi là gì nhưng nó ở cách những thành phố lớn xa lắm ! Với con đường ngoằn ngoèo băng qua những cánh rừng cây cao vút, làm cho con người thấy mình quá bé nhỏ trước thiên nhiên. Những dãy núi hình vòng cung bao quanh vùng đất bằng phẳng và rộng lớn. Một con sông bắt nguồn từ các dòng suối chảy về và băng qua cánh đồng, tạo cho nơi đây trở thành vùng đất phì nhiêu, cây lá xanh tốt quanh năm. Chiều chiều, hơi đá từ các ngọn núi toả ra làm cho cái thung lũng này như chìm trong sương mù. Cảm giác lành lạnh và cảnh trí u uất đã tạo cho con người nơi đây sự trầm lắng và cam chịu.
         Nghe nói đã lâu lắm rồi, có một đoàn người đi tìm trầm. Họ đi suốt mấy tháng trời mà không tìm ra trầm. Họ tìm đường về xuôi bằng cách đi theo dòng chảy của các con suối. Đoàn người kéo nhau đi trong sự liêu xiêu, ngất ngưỡng và đói rét, bệnh hoạn. Họ xuống sông để tắm và cố gắng mò mẫm những con cá để ăn. Trong họ, ai cũng biết rằng muốn về đến nhà phải đi bộ nhiều ngày đường nữa. Tất cả nằm trên bờ sông để nhìn núi, nhìn trời. Lúc này họ mới nghĩ về chính thân phận của họ. Thật là khốn khổ cho kiếp người ngậm ngải tìm trầm ! Lúc nào trong họ cũng mong một sự đổi đời, bằng cách tìm được một cục trầm thật to để chấm dứt cái nghề khốn nạn này. Nhưng rồi cục gỗ thơm tho màu đen ấy đã cuốn hút gần hết tuổi thanh xuân của họ nơi chốn rừng sâu núi thẳm. Để rồi cốt khỉ vẫn hoàn cốt khỉ. Lúc này họ đã biết chính con người của họ đã làm khổ cái thân xác của họ. Nếu trở về nhà thì lấy đâu ra tiền để trả nợ, trả lãi cho những nhà giàu đã cho họ vay tiền để trang trãi cho những chuyến đi rừng. Nếu không trả thì chắc chắn vợ con của họ phải ở đợ để gán nợ. Nếu đã ở đợ cho nhà giàu thì bản thân, vợ con của họ sẽ còn khổ hơn con chó nhà chủ. Nếu lên rừng trở lại để tìm cơ may cuối cùng thì cái đói, cái rét sẽ không buông tha họ và chắc chắn họ sẽ trở thành loại người rừng mà cha ông họ đã mắc phải.
         Vậy là cái xóm nhỏ nằm ven chân núi đã hình thành. Tất cả cùng nhau khai hoang vùng đất ven sông trước mặt nhà. Những cánh rừng đã lùi xa nơi họ ở, thay vào đó là những ruộng lúa xanh tốt. Dần dà trong xóm đã có tiếng khóc của trẻ con, tiếng chó sủa vào ban đêm, tiếng gà gáy sáng… Tất cả dù chưa nhiều nhưng cũng đủ để cho những con người sống ở đây đỡ thấy trống vắng hơn và thấy quý nơi họ đang sống.
         Ngay vụ thu hoạch đầu tiên, mọi người đã nghĩ ngay tới việc cất lên một ngôi nhà để làm nơi thờ cúng, tạ ơn thần linh của núi rừng đã phù hộ cho những con người sống nơi đây được trúng mùa. Đêm đêm trong ngôi nhà lợp tranh, vách nứa này vẫn được đốt lên đống lửa để những người đàn ông tụ tập lại với nhau. Họ kể cho nhau nghe về cuộc đời của mình cùng những kỷ niệm lúc còn ở dưới xuôi. Trong họ không có ai biết chữ cả ! Cuộc sống ở đây cứ vậy mà sinh sôi. Không ồn ào náo nhiệt. Không có ai mưu lợi cho riêng mình. Hầu như ai cũng đều sống bộc bạch với nhau.
         Có một buổi sáng, mọi người cùng thắc mắc bởi một chuyện lạ thường là trong xóm lại xuất hiện một vị thầy tu. Dù trên đầu đã không còn tóc, mặc áo cà sa, đi chân đất nhưng nhìn vóc dáng thanh mảnh và nước da trắng đã hiện rõ cho mọi người thấy rằng đây là một người giàu sang, quyền quý chứ không phải là một bậc chân tu. Có người thắc mắc là không thấy vị thầy tu đi vào nhưng lại có vị thầy tu từ nhà ông Năm đi ra. Ông Năm nói là thầy vào nhà hồi khuya. Ai cũng biết là ông Năm nói không thật. Ở đây mọi người đều biết đi một mình trong rừng vào ban đêm thì thì chẵng còn ai sống sót với lũ cọp beo. Ông Năm đưa vị thầy tu đến ở trong ngôi đình của xóm. Ban đêm nghe tiếng thầy đọc kinh, có người thắc mắc “ đã là thầy tu thì phải có chuông, có mõ, sao thầy lại không có ”. Hàng ngày thầy vẫn đi làm ruộng với mọi người. Nhìn cách làm ruộng của thầy không giống người làm ruộng thực thụ. Nếu có người thắc mắc thì ông Năm đều có cách biện hộ cho thầy. Vậy rồi mọi chuyện cũng qua đi, không ồn ào náo nhiệt như cái vốn có của nó.

         Vị thầy tu ít nói chuyện, sống âm thầm, lầm lũi trong ngôi đình. Ngôi đình được dọn dẹp sạch đẹp. Mọi người đều vừa lòng. Đêm khuya khi mọi người đã trở về ngôi nhà của mình thì trong đình lại vang lên tiếng đục gỗ lốc cốc. Mấy ngày sau mọi người mới biết thầy đang tạc tượng Phật. Khi tượng được đặt lên giữa ngôi đình, mọi người mới bàn tán. Người nói mặt Phật buồn quá. Người nói ốm quá. Nhưng ai cũng công nhận là mặt tượng không giống ông Phật ở dưới xuôi.

         Bức tượng được ngự trên tòa sen. Những cánh sen được đẻo gọt cẩn thận, nhưng muốn hiểu đó là một bông sen thì người nhìn phải tưởng tượng ra. Những cánh sen nhìn từ phía trước lại nhỏ hơn những cánh sen ở phía sau và cánh cao, cánh thấp không đều nhau, tạo nên một sự sắp xếp lộn xộn, trái ngược với những cánh sen mà thiên nhiên đã tạo ra. Đức Phật to khoảng đứa bé ba tuổi, ngồi kiết già, hai tay chắp lại phía trước ngực. Chiếc áo cà sa mặc chéo sang một bên, còn một bên để trần lộ rõ xương vai và từng dãy xương sườn biểu hiện sự khắc khổ, chịu đựng. Khuôn mặt Đức Phật nghiêm nghị, trầm tư, yên lắng… như một sự bằng lòng với ngoại cảnh. Người xem tượng khó hình dung được đức Phật có còn tóc hay không, bởi do những vết đẽo nham nhở tạo nên những đường gợn sóng không đều trên đầu tượng Phật. Mọi người đều biểu hiện sự thông cảm với điều kiện của thầy.
         Có tượng Phật, có thầy trụ trì, ngôi đình mặc nhiên trở thành ngôi chùa mà chính những người làm ra nó chưa bao giờ nghĩ tới. Đêm đêm mọi người đều nghe thầy đọc kinh. Nghe mãi thành thuộc. Ngày làm ruộng, đêm lên chùa đọc kinh, vậy là họ trở thành phật tử hồi nào không hay, không biết. Có người thắc mắc “ kinh nhà Phật thì nhiều, tại sao thầy chỉ thuộc kinh cầu an và cầu siêu ?. Nghe vậy có người trả lời “Sống thì  cầu an, chết thì cầu siêu chứ biết cầu gì cho nhiều ”. Tất cả  cười ồ lên trong không khí thoải mái, vô tư.
         Một hôm có một toán người tìm trầm, họ đến và ở lại chùa ăn chay, nằm đất ba ngày đêm. Khoảng hai tháng sau, họ đưa lên chùa một cái chuông đồng to bằng thùng gánh nước, nặng chừng hai người khiêng. Họ nói là nhờ Phật phù hộ mà họ tìm gặp một cục kỳ nam, cho nên họ tặng chùa để tạ lễ theo đúng lời khấn nguyện của họ. Mọi người vui vẻ nhận chiếc chuông. Không ai tham gia vào những câu chuyện sặc mùi tiền bạc của người đối diện.
         Tiếng chuông chùa làm cho cái xóm nhỏ vui hẳn lên. Núi rừng chung quanh, muông thú chung quanh dường như im lặng hơn mỗi khi tiếng chuông được cất lên. Buổi sáng khi mọi người đang ngủ say thì tiếng chuông được dóng lên từng hồi như giục giã, réo gọi, vậy là ai cũng thức dậy để chuẩn bị cho một ngày làm việc mới. Ngày tháng trôi qua, tiếng chuông vẫn đều đặn ngân vang, chính xác hơn tiếng gà gáy, trung thành như người lính đứng gác. Tiếng chuông vào ban đêm nghe khác hơn buổi sáng. Chỉ có những người sống nơi đây mới hiểu được điều đó.
         Năm tháng qua đi, chiến tranh qua đi. Mọi người ở đây đã làm hết sức mình để bảo vệ vùng quê mới của họ. Xóm núi năm xưa bây giờ đã thay đổi. Có chợ đông vui, đường sá thông thương, rừng chỉ còn ở trên núi. Ngôi chùa bằng gỗ, lợp tranh chỉ còn trong trí nhớ của những người lớn tuổi, thay vào đó là một ngôi chùa được xây dựng bề thế. Riêng vị sư già thì vẫn đầy bí ẩn và vẫn trầm tư như đang thả hồn vào một cõi xa vắng nào đó. Tiếng chuông vẫn được cất lên đều đặn. Khúc ngân của chuông vào mỗi buổi chiều như kéo dài hơn, nghe như một điệu nhạc trầm buồn. Dù không lý giải được nhưng ai cũng hiểu mỗi khi nghe thầy đánh chuông, lòng có buồn thì cũng thấy vui, lúc quá vui thì cũng làm cho lòng người như lắng lại.
Một hôm trong chùa xuất hiện một người phụ nữ có vóc dáng cao to, đầy đặn, trên người đeo nhiều nữ trang đắt tiền. Người phụ nữ khóc. Mặt thầy không biểu hiện một nét buồn vui nào cả. Thì ra người đàn bà đẹp và sang trọng này chính là con gái của thầy. Vậy là những điều bí ẩn đã được hé mở. Hồi ở dưới xuôi thầy đã có vợ và một người con gái. Vợ thầy là một người phụ nữ đẹp và lanh lợi. Gia đình thầy giàu có, ruộng đất rất nhiều. Nếu không có trí nhớ tốt thì không thể nhớ hết những người làm công trong nhà. Không có ai biết được thầy đã học hết lớp mấy, nhiều người chỉ nghe nói được rằng từ nhỏ đến lúc trưởng thành, thầy chỉ biết đi học. Rồi gia đình giàu sang, quyền quý đó thật sự tan nát kể từ khi người chồng tận mắt trông thấy vợ của mình đang nằm bên cạnh một người đàn ông khác. Lúc đó người chồng đã đã bộc lộ hết bản năng ích kỷ của người đàn ông. Vợ chết. Người chồng tìm lên rừng để gặp ông Năm là người đầy tớ lâu năm trong nhà của mình.
         Không hiểu sao từ hồi thầy trở về thành phố để thăm đứa con gái của mình thì tiếng chuông được đánh lên nghe khác hơn. Nó không còn ngân vang, kéo dài như để đưa hồn người nghe vào cõi sâu lắng của tâm linh, hay dẫn dắt, níu kéo sự tham dục trở về với nhân bản. Tiếng chuông nghe như đứt quãng từng hồi, có lúc lại hối thúc, dứt khoát như tiếng trống trận. Người con gái của thầy trở lại thăm và nói với thầy cùng các phật tử là xin được cúng dường cho chùa một tượng Phật to và một cái đại hồng chung để thay thế cho những cái đã cũ. Thầy im lặng. Có người nói: “ Thầy xem thường lòng tốt của đạo hữu”, người nói: “ Thầy không lo việc xây dựng chùa”.
         Đã hai đêm rồi không nghe tiếng chuông chùa được đánh lên. Đây là một điều không bình thường. Nhiều người chạy lên chùa tìm thầy. Khung cảnh chùa vẫn vắng lặng như mọi ngày. Thầy đang quỳ trước chánh điện, một tay xá phía trước ngực, một tay để tựa trên quyển kinh. Nhìn vết máu chạy dài từ miệng xuống và đông cứng lại trên trên chiếc áo cà sa, mọi người đều biết là không còn sống. Ông Năm ân hận là mấy hôm nay bị đau lưng nên ông không lên chùa. Đứa cháu gái sắp được chồng cưới  phải bỏ đi làm ruộng để thay ông làm các việc chẵng tính công ở chùa. Cô bé vừa khóc vừa kể “ Trưa, chiều con đều đưa cơm lên cho thầy và con vẫn thấy thầy quỳ như vậy. Con nghĩ là thầy bận xem kinh”. Có người hỏi lại “ Sao con không nhắc thầy ăn cơm”. Cô bé lau nước mắt “ Sợ thầy giật mình nên con không dám gọi”. Bây giờ thì ai cũng hiểu thầy đã đến sống và đi khỏi xóm núi này đều là sự lặng lẽ, khó hiểu…
         Nhiều người đến để tiễn thầy ra an nghỉ ở một góc rừng, nơi có những cây gỗ quý còn sót lại của thuở khai hoang. Riêng con gái của thầy thì không có mặt. Đúng là cô ta không biết, do không có ai biết nơi ở của cô để báo tin.
         Hàng ngày tiếng chuông lại được ngân vang dội vào vách núi./-

                                                                                                             TRẦN DUỆ
                                                                                                      Điện thoại: 0989.870.698 

Thứ Sáu, 22 tháng 6, 2012

XÓM “LÂM TẶC”


                    

Trần Duệ hiện ở Tánh Linh, Bình Thuận và đang sinh hoạt trong hội Văn Học Nghệ Thuật Bình Thuận, xin giới thiệu truyện ngắn XÓM LÂM TẶC của  anh đến cùng bạn đọc


                                      XÓM “LÂM TẶC”

                                                                              Tác giả : Trần Duệ

    Nghe nói cái xóm nhỏ này đã hình thành từ lâu lắm rồi, tôi có biết ông nội, ông ngoại của tôi đến sống ở đây lúc còn trai tráng. Hồi mới đầu lập xóm chỉ có khoảng vài chục nóc nhà nhưng người đi, kẻ đến rồi sinh đẻ thêm, nên đến nay cả xóm có hơn trăm nóc nhà đang sinh sống. Trước đây người ta gọi xóm này là Xóm Rừng, bởi vì chung quanh là rừng và cách đường lớn của huyện  hơn chục cây số và phải đi qua bốn con suối lớn, nhỏ. Vào mùa mưa, nước ở những con suối này chảy cuồn cuộn nhưng chưa bắc cầu qua suối nên người đi đường  chỉ biết đứng nhìn chứ không ai dám lội qua. Cái tên xóm “ Lâm Tặc” được hình thành từ lúc người ta nghe trên đài và mấy cán bộ huyện gọi những người làm nghề rừng là lâm tặc. Nghe hoài cũng quen, nên nhiều người đã quen gọi tên xóm nhỏ này là “ Lâm Tặc” và hầu như ít ai nhắc đến cái tên do chính quyền đặt cho là xóm Năm hay xóm Sáu gì đó! Gọi là làm nghề rừng nhưng thật ra người dân trong xóm chỉ vào rừng những tháng mùa nắng, còn mùa mưa thì họ lên rẫy để trồng lúa, trồng bắp…

   
   Có một buổi sáng mùa khô, cả xóm vui như hội. Mới tờ mờ sáng đã có bốn chiếc xe to chạy vào trong xóm.Tiếng còi xe inh ỏi. Từng đoàn người mặc đồng phục, đội mũ trắng, tay xách, vai đeo cây kèn Tây sáng bóng, trông thật đẹp. Một lúc sau bà con mới vỡ lẽ ra đây là đoàn đưa đám ma. “ Đám ma con Mơ”. Có người ngỡ ngàng, có người tiếc rẽ: “ Con Mơ đẹp gái vậy mà chết sớm thì uổng quá !”. Người lớn lũ lượt kéo nhau đến thăm đám ma, con nít và đám thanh nhiên choai choai say mê những bản nhạc do nhóm nhạc công cất lên. Họ thổi đủ các loại nhạc, có lúc “ Oan ta là mê ra” nghe vui vui, lúc thì chùng xuống thật lắng dịu “ Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ”. Bọn nhỏ đang nhìn thấy một đám ma lạ lùng, không giống với những đám ma trước đây chỉ biết thổi những điệu nhạc ọ e, ọ e  nghe muốn não lòng. 
     Tin Mơ chết đến với tôi là một sự bất ngờ quá lớn. Nhà Mơ ở cách nhà tôi mấy cái nhưng thật ra cách cũng khá xa do nhà nào vườn cũng rất rộng. Chúng tôi cùng học cấp hai, cấp ba ở trường huyện. Mơ học không giỏi nhưng rất chăm. Trong xóm chỉ có có tôi và Mơ học đến cấp ba nên nhiều người trong xóm cũng quý chúng tôi. Trường chúng tôi học nằm ở dưới huyện, nên hàng tuần chúng tôi cùng đi bộ về thăm nhà một lần, do vậy tôi và Mơ chơi thân với nhau. Nhiều thanh niên thấy chúng tôi đi về cùng nhau mà thèm thuồng mong được như tôi. Điều dễ hiểu là Mơ rất đẹp. Nhìn đôi mắt màu nâu sáng nằm giữa những quầng đen tự nhiên quanh đôi mắt làm cho đôi mắt của Mơ như một màu nhung đen. Nụ cuời của Mơ như toả những nét tươi vui, hiền hậu. Nói thật lòng, đối với tôi dù Mơ có cười hay không tôi cũng thấy đẹp. Có những chiều thứ bảy chúng tôi từ trường về nhà. Trời mưa, nước suối dâng cao, tôi phải dìu Mơ qua suối. Áo quần chúng tôi đều ướt. Mơ mắc cỡ. Tôi nói: “ Không sao !”.
      Đến năm lớp 11, Mơ phải nghỉ học vì mẹ của Mơ bị chết do sốt rét ác tính. Biết được tin mẹ mất lúc chúng tôi còn đang ngồi học bài. Mơ khóc. Những giọt nước mắt chảy thấm đẩm trang sách. Tôi thấy Mơ đẹp và thánh thiện hơn ngày bình thường. Cha của Mơ là một người đàn ông bị mù do tai nạn trong một lần đi khai thác gỗ. Mơ ở nhà chăm sóc cha mình và thay mẹ đi làm rẫy. Nhà của Mơ lợp tranh nằm khuất ở góc rừng, vốn đã buồn bây giờ chỉ có hai cha con nên trông càng buồn hơn. Ngày tôi trúng tuyển vào trường Đại học Kinh tế thì nghe tin Mơ đã có người yêu. Nghe nói người này lớn tuổi và chuyên nghề mua bán gỗ. Ông ta mua gỗ của bà con trong xóm “ Lâm Tặc” khai thác được, rồi chở về xuôi để bán. Từ chỗ mua một nhưng lại bán bán năm, bán mười nên ông ta rất giàu. Ai cũng thầm khen Mơ may mắn gặp được người giàu có để sớm thoát khỏi cái xóm rừng này. Học xong năm thứ nhất, tôi nghỉ hè về và được biết Mơ đã sinh được một đứa con gái. Còn lão đầu nậu gỗ kia đã chuyển đi mua gỗ ở nơi khác và không trở lại làm đám cưới với Mơ như đã hứa. Cuộc sống của Mơ cứ khổ chồng lên khổ. Mơ tránh gặp mặt tôi
       Còn tôi, một anh sinh viên học mãi mà không ra trường được. Học hết năm thứ hai, trong nhà không có tiền đóng học phí, tôi xin được bảo lưu kết quả để về nhà vào rừng cưa gỗ, kiếm tiền rồi năm sauvào học tiếp. Cứ hết đợt bảo lưu này đến đợt bảo lưu nọ mà đã bảy năm, tôi vẫn còn làm sinh viên. Đến khi đứa con của Mơ được năm tuổi, Mơ vào Sài Gòn may thuê cho một công ty nào đó. Tôi có đến thăm nhưng hình như Mơ không muốn gặp tôi.  Đám tang của Mơ chắc là sang trọng nhất từ trước tới nay ở cái xóm này. Có người nói “ con Mơ chết mà gặp may”. Nghe kể là vào lúc 9 giờ đêm, Mơ đi làm tăng ca về, trên đường cò một tốp thanh niên đua xe. Một tên đã tông Mơ văng sang bên đường. Đám đua xe chạy mất dạng. Mơ tắt thở tại bệnh viện ngay trong đêm đó. Sáng hôm sau, một người đàn ông trung niên đi cùng hai cán bộ công an đến nhận xác Mơ. Sau này nhiều người biết được rằng người đàn ông đó là cha của người thanh niên đua xe, gây ra tai nạn. Anh thanh niên này đi chơi về khuya, người cha ra mở cổng, thấy đứa con có thái độ khác thường. Ông ta gặng hỏi. Người con nói thật với cha là đã gây tai nạn rồi bỏ chạy. Thấy lòng day dứt, ông điện thoại cho công an ngay trong đêm đó và sẵn sàng nuôi dưỡng và đền bù cho người bị nạn. Nhưng ông không ngờ nạn nhân lại không thể sống được.




     Đám tang Mơ thật là đông người, thật ồn ào. Cha của Mơ được người ta dắt lên xe tang, mặt ông chng vui, cũng chng buồn. Đứa con gái của Mơ lăng xăng chạy theo đội kèn trống để nhìn, để nghe những âm thanh lạ tai. Khi chuẩn bị hạ huyệt, tôi nhìn sang một góc xa của nghĩa địa, thấy thằng Khang đang ngồi quay lưng lại với đám đông đang ồn ào trước huyệt mộ. Tôi thấy vai thằng Khang rung lên, giật giật liên tục, hai tay hắn đang ôm đầu. Thằng Khang cũng khóc ư, đối với nhiều người thì đó là điều lạ. Chính tôi cũng ngạc nhiên về chuyện này.Trước đây Khang là thằng uống rượu suốt ngày. Vốn tính nó đã ngang tàng nhưng khi nốc rượu vô thì trông mặt hắn còn dữ hơn, nên ai trong xóm cũng sợ hắn. Sau đám tang, cha của người gây tai nạn đã giao cho cha Mơ 10 cây vàng và xin ông làm giấy bãi nại. Ở cái xóm rừng này 10 cây vàng là to lắm, bởi vì người dân ở xóm tôi dù có lặn lội quần quật suốt đời trong rừng cũng không thể làm ra số vàng nhiều như vậy. Người đàn ông mù lòa lăn tay vào một tờ đơn người ta đã soạn sẵn. Mắt ông nhìn vào khoảng không một cách vô hồn.
Xóm “Lâm Tặc” dù còn rất nghèo, nhưng mỗi ngày mỗi đông thêm bởi vì đây chính là nơi để những mảnh đời nghèo khổ, phiêu dạt từ đâu đó tìm đến nương thân. Bà con trong xóm còn nhớ cách đây gần hai chục năm, có một người đàn bà ăn mặc rách rưới có dắt theo một đứa con trai còn rất nhỏ về xóm này. Bà ta nấu cơm thuê cho những người thợ cưa gỗ thuê. Bà cứ  đem thằng nhỏ đi theo đám thợ cưa từ cánh rừng này qua cánh rừng khác. Không hiểu sao, sau đó bà đi theo một người thợ cưa góa vợ, bỏ lại thằng Khang bơ vơ. Thằng Khang lớn lên như rong rêu, như bọt bèo ở trong cái xóm này. Nhiều ông chủ đầu nậu gỗ thấy hắn hung dữ nên luôn thuê hắn để trừng trị những thợ rừng muốn bỏ chủ cũ để sang làm cho chủ mới. Thằng Khang đã trở thành một đại diện của luật rừng ở đây. Ông chủ của hắn thấy công lao cống hiến của hắn cũng khá nhiều, nên thưởng cho một chuyến về thành phố thăm chơi. Chủ của hắn dắt hắn đi chơi đĩ. Hắn bị bệnh lậu. Ông ta cho hắn uống mấy viên thuốc thì lành bệnh và không quên dặn hắn nếu ăn thịt gà thì bệnh sẽ tái phát. Từ đó thằng Khang sợ thịt gà như người ta sợ nó. Biết được chuyện này đàn bà, con gái trong xóm sợ hắn như sợ rắn. Sau này, có một lần tôi uống rượu với Khang ở trong rừng, hắn nói với tôi là có thời gian nó rất buồn vì không biết chữ. Nhưng bây giờ hắn đã biết đọc được chữ trên tờ báo và viết được tên của chính mình là do Mơ dạy cho.
Sau đám tang của Mơ, cả xóm như buồn hẳn đi. Tôi đã kiếm đủ tiền đóng học phí để vào học tiếp. Thằng Khang đổ ra uống rượu nhiều hơn. Những “ lâm tặc” chính hiệu bây giờ không còn sợ hắn nữa nhưng vẫn thích mời hắn uống rượu. Trong xóm có Hoàng – một thợ cưa lành nghề - một lâm tặc khôn khéo nổi trội. Có một lần hắn nhậu ở một quán thịt chó ngoài huyện, nghe đánh lộn hắn nhảy ra can. Lúc đó có đông người quá, hắn chẵng biết ai lại ai. Có một người xông ra, hắn tức giận vì tự dưng lại đánh vào đầu hắn. Hắn vung tay đấm vào mặt người kia một cái thật mạnh. Máu chảy tràn mặt, người đó bất tỉnh. Ngày hôm sau công an đến bắt hắn vì tội đánh người thi hành công vụ. Lúc đó hắn mới biết người bị hắn đánh là một cán bộ của huyện. Có người đến nói với hắn là cứ yên tâm nhận tội đánh người thi hành công vụ thì sẽ được gia đình anh cán bộ đó chu cấp trong những ngày ở tù. Hồi đầu hắn cũng ưng bụng nhưng nghĩ lại sợ người ta không giữ đúng lời hứa thì thêm khổ. Tòa xử hắn một năm tù ở vì tội đánh người gây thương tích. Hắn không kháng án. Sau khi ra tù ít ngày, hắn đến nhờ tôi viết cho người yêu hắn một lá thư báo tin hắn đã hết hạn tù và xin được cưới cô ta làm vợ. Hắn tâm sự với tôi là thời gian ở trong tù, mấy bạn tù khen hắn là can đảm và công bằng. Nếu trước tòa, hắn nhận tội chống người thi hành công vụ thì người cán bộ đó sẽ trở thành thương binh, trong khi vết thương do hắn gây ra không đáng là bao. Hoàng huyênh hoang tuyên bố mình là thằng đã từng vào tù, ra tội làm cho mấy thằng thợ rừng có máu mặt phải kiêng nể. Những tay buôn gỗ giàu có cũng biết sợ Hoàng. Hắn đảm nhận việc bốc gỗ lên xe cho các chủ gỗ. Thằng Khang cũng được Hoàng thu nhận vào đám bốc gỗ của hắn. Chủ gỗ trả cho Hoàng bao nhiêu tiền một xe gỗ khi đã bốc lên thì không ai biết, người ta chỉ biết nhận tiền công từ Hoàng trà mà thôi. Kiếm được tiền kha khá, Hoàng cưới vợ, mua xe tải để chở gỗ thuê, sắm dàn Karao ké để mỗi tối cho đám bốc vác hát thoải mái, khỏi trả tiền. Thằng Khang trước đây mang tiếng dữ dằn vậy mà cũng lép vế trước Hoàng. Theo tôi biết máu lạnh của thằng Khang không thua gì Hoàng nhưng chỉ có điều là Hoàng khôn ngoan hơn.
      Cái số thằng Khang đã nghèo thì đành chịu nhưng không hiểu sao nó lại lây lan cái nghèo cho người khác mới đáng buồn chứ ?.  Trong một cuộc nhậu, đang dở chừng thì Hoàng sai Khang đi mua thêm rượu, thêm mồi. Khang tính đi bộ nhưng Hoàng bảo cứ lấy xe máy của Hoàng mà đi cho nhanh. Một lúc sau đám nhậu tan rã do có người chạy đến báo tin là Khang đã gây tai nạn cho người đi đường. Nạn nhân là một thằng bé và vết thương cũng khá nặng. Ác thay, thằng nhỏ là con của một “ lâm tặc” bữa đó, bữa no ở trong xóm. Người ta đưa thằng bé về bệnh viện huyện, rồi chuyển lên bệnh viện tận trên Sài Gòn. Ba thằng nhỏ phải đi vay tiền của những đầu nậu gỗ để có tiền đưa con đi bệnh viện và cam đoan sẽ trả bằng gỗ khai thác trong rừng. Công an bắt thằng Khang trong ngày hôm đó, ngay trong lúc hắn còn nồng nặc mùi rượu.
    Công an bắt Khang cũng là điều may mắn cho hắn. Ai cũng biết thằng Khang chỉ có “trên răng dưới rứa” thì biết lấy cái gì mà bồi thường cho người ta. Nếu hắn còn ở ngoài chắc cũng khó sống với bà con thằng nhỏ mà hắn gây tai nạn. Điều may mắn cho Khang là thằng nhỏ không chết.
    Thằng Khang đang ở trong tù thì nghe cán bộ trại giam thông báo là hắn được lệnh tha. Được ra tù mà hắn lại không muốn ra. Hắn xin ở lại trong tù cho yên thân. Anh công an nói với hắn là cứ yên tâm, do gia đình thằng bé đã làm đơn xin bãi nại cho hắn rồi. Chân hắn bước không muốn nổi để ra khỏi trại giam khi hắn nghe anh công an nói là có một người đàn ông bị mù trả toàn bộ tiền bồi thường cho gia đình thằng nhỏ mà nó gây tai nạn. Ra khỏi cổng trại giam thằng Khang gào lên thật to: “ Ba ơi”
     Đến nay nhà nước đã xây cầu qua bốn con suối ở trên đường đến xóm “Lâm Tặc”. Tôi đã ra trường và làm ở một cơ quan của huyện. Thằng Khang về ở với cha của Mơ. Hoàng bị kết án ba năm tù vì tội phá rừng. Hôm tôi đến thăm Hoàng trong trại giam, Hoàng nói đi, nói lại với tôi một câu nói đã trở thành lời nguyền: “ Ăn của rừng, rưng rưng nước mắt”./.