BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hán-Việt Thông Dụng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hán-Việt Thông Dụng. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 30 tháng 11, 2025

MAGGI, XÌ DẦU HAY TÀU VỊ YỂU; BỘT NGỌT, VỊ TINH HAY MÌ CHÍNH... – Ung Chu, Hán-Việt Thông Dụng



MAGGI, XÌ DẦU HAY TÀU VỊ YỂU !

“Xì dầu” theo tiếng Quảng Đông "si6 jau4" 豉油 (Jyutping) và "xì íu / xì yếu" theo tiếng Triều Châu "si7 iu5" 豉油 với âm Hán-Việt là "thị du" 豉油 nghĩa là dầu đậu lên men.
“Xì dầu” còn được gọi là "tàu vị yểu" theo cách đọc từ "đậu vị du" 豆味油 ("dầu" gia vị làm từ đậu tương) bằng tiếng Triều Châu..
Thương hiệu nước chấm Maggi của Thuỵ Sĩ cũng được người Việt tại một số địa phương chung hoá thành "ma-ghi", "ma-gi", "ma-di", được đưa vào "Từ điển tiếng Việt" ở dạng "magi" và "ma gi".
--
BỘT NGỌT, VỊ TINH HAY MÌ CHÍNH !

Sau khi người Nhật Bản phát triển chất monosodium glutamate (MSG) tạo vị umami để làm bột ngọt, người Trung Hoa đã vay mượn cách gọi "mi-sei" 味精 (みせい) của tiếng Nhật nghĩa là tinh chất của hương vị, đọc chữ Hán theo bản ngữ để gọi bột ngọt.
Các hãng bột ngọt của người Hoa khắp Đông Nam Á thời bấy giờ cũng dùng từ này, âm Hán-Việt là "vị tinh" 味精 và phát âm theo tiếng Quảng Đông "mei6 zing1" (Jyutping) nghe như "mì chính".
Huế là một trong những địa phương gọi mì chính / bột ngọt là "vị tinh".

Thứ Hai, 16 tháng 6, 2025

BIÊN BẢN 編本 - Hán-Việt Thông Dụng, Ung Chu



"Biên bản" 編本 là một từ Hán-Việt người Việt tự tạo từ rất lâu, chuyên để gọi các loại văn bản được biên soạn, ghi chép cho mục đích công vụ, họp hành...
- biên : sắp xếp, sắp đặt, đặt chuyện, biên soạn, viết, ghi chép, như trong "biên kịch", "biên lai", "biên nhận" ("biên lai" 編來 và "biên nhận" 編認 cũng là các từ Hán-Việt người Việt tự tạo), đã được Việt hoá thành động từ "biên" trong tiếng Việt
- bản / bổn : tập vở ghi chép, văn bản, như trong "kịch bản".
"Việt-Nam tự-điển" (1931) của Hội Khai Trí Tiến Đức ghi:
- Biên bản 編本. Những tờ giấy biên những việc gì thuộc về công-sự: Biên-bản việc bầu cử, biên-bản việc tố-tụng, biên-bản việc hình án.
Xét cách đọc là "bản" thay vì "bổn", ta đoán rằng từ "biên bản" xuất phát từ các địa phương ở phía Bắc. Tại Hà Nội, sách "Từ hàn cử yếu" 詞翰舉要 (có đủ các lối đơn-từ giấy-má làm việc quan hơn 100 thể) xuất bản năm 1924 có phần hướng dẫn quy cách viết các biên bản.
                                                                                               Ung Chu

Chủ Nhật, 19 tháng 1, 2025

HẠ UY DI 夏威夷 – Ung Chu, theo Hán-Việt Thông Dụng

 

Hawaii (tiếng Hawaii: Hawaiʻi) ngoài cách phiên âm "Ha-oai" thì người Việt còn vay mượn tiếng Trung Quốc "Hạ Uy Di夏威夷. Đây là cách phiên âm dựa trên tiếng Quảng Đông "haa6 wai1 ji4" 夏威夷 (Jyutping), sau đó phổ biến sang các ngôn ngữ Trung Hoa khác, và người Việt chuyển âm thành Hán-Việt. Hawaii là lãnh thổ thuộc Hoa Kì, quần đảo này nằm giữa Thái Bình Dương rộng lớn.
Người Việt đã du nhập một loại nhạc cụ mà tên tiếng Anh là "lap steel guitar" hay "Hawaiian guitar", với cách chơi đặc trưng là để lên đùi. Người Việt gọi đó là đàn Hạ Uy Di hay "Hạ Uy cầm" 夏威琴. Cách gọi lược bớt âm tiết này ta đã gặp trong tên gọi "Tây Ban cầm" 西班琴 dựa trên tên "Tây Ban Nha" 西班牙.

                                                                                    Ung Chu
                                                                       Hán-Việt Thông Dụng

Thứ Năm, 16 tháng 1, 2025

TRANH DÂN GIAN VIỆT NAM VẼ HỔ - Ung Chu, theo Hán-Việt Thông Dụng



Chuyên mục nhằm thuyết minh các kí tự Hán và Nôm trên các tác phẩm tranh dân gian Việt Nam, giúp người Việt Nam hiện đại cảm thụ rõ hơn nội dung các bức tranh này. Tranh dân gian là các di sản Hán - Nôm có giá trị, có sức sống bền bỉ và độ tiếp cận rộng rãi trong dân chúng.
 
Ta phân tích chữ trên 2 bức tranh dân gian vẽ hổ, một thuộc dòng Đông Hồ, một thuộc dòng Hàng Trống.

 UY TRẤN SƠN HÀ (TRANH ĐÔNG HỒ)


Có người gọi đơn giản là tranh "Con hổ". Tranh viết 4 chữ "uy trấn sơn hà" 威鎮山河 và do "uy" còn được đọc là "oai" nên có người gọi là "oai trấn sơn hà".

Tuy nhiên, đây là cách viết lệch đi so với gốc "uy chấn sơn hà" 威震山河 được dùng trên nhiều tranh vẽ hổ tại Trung Quốc và Việt Nam. "Uy chấn" 威震 là oai làm cho kinh sợ, "sơn hà" 山河 là núi non và sông nước, ý nói chúa sơn lâm oai phong làm muôn loài kinh sợ. Cách viết dị bản của người Việt dùng chữ "trấn" thì lại hiểu thành trấn áp.