“Ví
dầu chẳng kết đặng đôi
Ngày
sau ta sẽ làm sui một nhà”.
“Ông
sui mà lấy bà gia
Thêm dâu, thêm rể, trong nhà thêm vui
Ông
gia mà lấy bà sui
Thêm
dâu, thêm rể, thêm vui trong nhà”
Ca dao
Nhà
thơ Lê Minh Quốc (áo đen) và vợ ra mắt hai họ
PHIẾM
LUẬN SUI GIA, THÔNG GIA, THÂN GIA…
Lê Minh Quốc
Lê Minh Quốc
Sui là nói tắt của “sui
gia” - gia đình có con cái cưới nhau. Nếu “nói chữ” ắt người ta sử dụng từ “thân gia”. Hán Việt tân từ điển của
Nguyễn Quốc Hùng, Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh đều giải thích: “Thân gia: Hai nhà có liên lạc/quan hệ hôn
nhân với nhau”.
Ngoài ra, còn có từ “thành thân”.
“Sui
gia đã xứng sui gia
Rày
mừng hai họ một nhà thành thân”
(Lục Vân
Tiên)
Với từ này nhiều người cho rằng: “Đây là nói chuyện hai tấm thân xáp lại với nhau để thành cuộc sống
chung nên chữ ‘thân’ ở đây hẳn là ‘thân’ trong ‘thân thể’, chứ không phải là ‘thân’
trong ‘thân thích’.”
Nhà nghiên cứu An Chi cho rằng: “Đây không phải chữ ‘thân’ trong ‘thân thể’ mà là chữ ‘thân’ trong ‘thân
thích’. Chữ ‘thân’ này có nhiều nghĩa liên quan đến hai tiếng ‘thành thân’ thì
từ điển giảng là ‘chỉ việc hôn nhân của hai họ nhất định’.”
Chính
vì vậy nên tiếng Hán mới dùng chữ ‘thân gia’ để chỉ mối quan hệ mà tiếng Việt
trong Nam gọi là ‘sui gia’, còn tiếng Việt ngoài Bắc gọi là ‘thông gia’
(Chuyện
Đông chuyện Tây tập VI, NXB Trẻ - 2006, tr.356).
Chưa hết, với từ ‘gia’ ấy, ta còn thấy xuất hiện trong
ngữ cảnh, chẳng hạn, cô gái nọ khoe: ‘Gia đình bên chồng tốt lắm, bà gia thương
tớ như con ruột’. Bà gia là mẹ chồng. Đã có ‘bà gia’ ắt có ‘ông gia’.
Lại nữa, chàng trai kia bảo: ‘Chiều nay, không thể bù
khú được đâu, tớ còn phải vào bệnh viện thăm bà nhạc’. Bà nhạc là mẹ vợ. Đã có ‘bà
nhạc’ ắt có ‘ông nhạc’.
Thơ Lục Vân Tiên có câu:
Tiên
rằng: Nhờ lượng nhạc gia
Đại
khoa dầu đặng, tiểu khoa lo gì
Thì ‘nhạc gia’ lại là bên nhà vợ, cha vợ.
Trong quan hệ thông
gia/sui gia ấy, các đấng phụ huynh lúc trò chuyện thường gọi nhau ‘anh sui/chị sui’; có điều lạ, chẳng ai
gọi ‘anh thông/chị thông’.
Nhân đây nói luôn, ai cũng biết chánh/chính, đàn/đờn cùng nghĩa, tùy vùng miền mà người ta chọn
cách phát âm. Tuy nhiên, từ Nam chí Bắc chỉ có chức danh Chánh văn phòng, chỉ gọi vườn Tao
đàn, chứ từ "chính"/"đờn"
hoàn toàn không ‘có cửa’ (không có ‘chính
văn phòng, vườn tao đờn’). Tại sao lại tréo ngoe thế nhỉ?
Ca dao có câu đùa tếu táo:
“Ông
sui mà lấy bà gia
Thêm dâu, thêm rể, trong nhà thêm vui
Ông
gia mà lấy bà sui
Thêm
dâu, thêm rể, thêm vui trong nhà”
Với hai từ ‘sui’ và "gia’, ta có thêm nhận
xét gì không?
Rằng, sui đồng âm với xui, chẳng hạn, xui dại/xúi dại, xui giục/xúi giục;
trong khi đó, trong tiếng Việt không có từ ‘súi’.
Lại nữa, gia đồng âm với da, thế nhưng lại không có giá đồng âm với dá. Tại sao? Chỉ vì trong tiếng Việt hoàn toàn không có từ ‘dá’. Nói cách khác, súi và dá chẳng có nghĩa gì cả.
Thử đặt câu hỏi vu vơ rằng, cách đây hơn 460 năm trước,
ngoài từ sui gia/thông gia, người Việt
còn sử dụng từ nào? Nói có sách mách có chứng, thật bất ngờ, khi tra Từ điển Việt
Bồ La, ta thấy A. de Rhodes giải thích: ‘Sui
gia: Bố chồng, bố vợ, mẹ chồng vợ. Tốt hơn, sui gia. Có người nói: ‘gùn ghè’.
A.de Rhodes giải thích: ‘Ghè, ngồi ghè: Ngồi sát, ngồi ghé bên ai’.
Còn ‘gùn’ là
gì? Việt Nam tân từ điển (1965) của Thanh Nghị cho biết: ‘Gùn: Đầu mối nổi lên của mặt hàng tơ lụa. Hàng nhiều gùn’.
Sở dĩ, ‘gùn ghè’
được sử dụng thay cho thông gia/sui gia
có phải do nghĩa của cả hai từ gùn và ghè ghép lại chăng?
Trải qua năm tháng, từ ‘gùn ghè’ này đã được hiểu qua nghĩa khác. Từ điển Việt Pháp của
J.F.M Génibrel (1898) giải thích là nhìn chằm
chằm.
‘Gùn
ghè nhưng hãy còn e ấp
E ấp cho nên phải rụt rè’
(Thơ Chiêu Hổ đùa bà Hồ
Xuân Hương)
Việt Nam tự điển (1931) ở ngoài Bắc giải thích: ‘Gùn ghè: Mon men, ve vãn’.
Trong khi đó, với người xứ Nghệ lại gọi ‘gập ghè’, dấu vết ấy còn ghi nhận trong
Từ điển tiếng Nghệ qua câu vè: ‘Em đã có
nơi rồi/ Đừng gập ghè chi nữa’.
Cùng hàm nghĩa tương tự nhưng Việt Nam từ điển (1971) ở
miền Nam lại ghi nhận ‘Gầm ghè: Gò, tán tỉnh,
o bế’. Nay, chẳng mấy ai còn sử dụng ‘gùn
ghè’ theo nghĩa cua ghẹ, tán gái, o mèo nữa.
Hãy nghe câu ca dao:
Đi
đâu bỏ mõ bỏ chuông
Bỏ
ghè tương lạt, bỏ buồng chuối non.
Ghè ở đây lại là chum, lu, vại, vò, lọ nhỏ bằng sành,
bằng đất nung. Nếu đập khe khẽ (hoặc cạy) vào một vật rắn cho nó mẻ dần dần
theo ý muốn cũng gọi ‘ghè’.
Thế nhưng hiểu theo nghĩa là tẩn/đánh/nện cho ‘ra môn ra
khoai’ thì từ ‘ghè’ lại xuất hiện
ngon ơ, chẳng hạn, ‘Đã cảnh báo nhiều lần
mà chúng cứ cứng đầu cứng cổ, chi bằng anh em mình ghè một trận cho chừa thói’.
Mà ghè cũng
là đè/đè ra, một người sau khi đọc câu thơ của Tú Xương: “Chữ ‘y’ chữ ‘chiểu’ không phê đến/ Ông chỉ
quen phê một chữ tiền”, bèn mỉa mai: “Quan
nhà ta cứ ghè đầu dân mãi thế này thì đúng là ‘thanh liêm’ thật”.
Trở lại với chuyện anh
sui, chị sui. Sực nhớ, thời kháng chiến trước đây, nhà văn, nhà báo Nguyễn
Hải Tùng - nguyên ủy viên Ban Tuyên huấn Khu ủy Khu Tây Nam bộ, có bài ca dao cực
kỳ dí dỏm: ‘Máy bay Mỹ bỏ bom gần/ Anh
sui lính quýnh xuống hầm chị sui/ Máy bay bay mất lâu rồi/ Mà anh sui vẫn còn
ngồi tránh bom’.
Cớ sự tại làm sao?
Tác giả không giải thích gì thêm.
Lê Minh Quốc
Nguồn:
https://tuoitre.vn/anh-sui-linh-quynh-xuong-ham-chi-sui-20171018175532695.htm
https://tuoitre.vn/anh-sui-linh-quynh-xuong-ham-chi-sui-20171018175532695.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét