BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC
Hiển thị các bài đăng có nhãn NGÔN NGỮ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn NGÔN NGỮ. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 30 tháng 11, 2025

MAGGI, XÌ DẦU HAY TÀU VỊ YỂU; BỘT NGỌT, VỊ TINH HAY MÌ CHÍNH... – Ung Chu, Hán-Việt Thông Dụng



MAGGI, XÌ DẦU HAY TÀU VỊ YỂU !

“Xì dầu” theo tiếng Quảng Đông "si6 jau4" 豉油 (Jyutping) và "xì íu / xì yếu" theo tiếng Triều Châu "si7 iu5" 豉油 với âm Hán-Việt là "thị du" 豉油 nghĩa là dầu đậu lên men.
“Xì dầu” còn được gọi là "tàu vị yểu" theo cách đọc từ "đậu vị du" 豆味油 ("dầu" gia vị làm từ đậu tương) bằng tiếng Triều Châu..
Thương hiệu nước chấm Maggi của Thuỵ Sĩ cũng được người Việt tại một số địa phương chung hoá thành "ma-ghi", "ma-gi", "ma-di", được đưa vào "Từ điển tiếng Việt" ở dạng "magi" và "ma gi".
--
BỘT NGỌT, VỊ TINH HAY MÌ CHÍNH !

Sau khi người Nhật Bản phát triển chất monosodium glutamate (MSG) tạo vị umami để làm bột ngọt, người Trung Hoa đã vay mượn cách gọi "mi-sei" 味精 (みせい) của tiếng Nhật nghĩa là tinh chất của hương vị, đọc chữ Hán theo bản ngữ để gọi bột ngọt.
Các hãng bột ngọt của người Hoa khắp Đông Nam Á thời bấy giờ cũng dùng từ này, âm Hán-Việt là "vị tinh" 味精 và phát âm theo tiếng Quảng Đông "mei6 zing1" (Jyutping) nghe như "mì chính".
Huế là một trong những địa phương gọi mì chính / bột ngọt là "vị tinh".

Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2025

QUẢN HUYỀN 管絃 - Bài viết của Khánh Ly, Tri thư đạt lễ


Hình ảnh: Quản huyền, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ


“Kiệu hoa đâu đã đến ngoài
Quản huyền đâu đã giục người sinh ly.”
                                      (Truyện Kiều)
 
Quản huyền, chữ Hán viết 管絃, nghĩa là ống sáo và dây đàn. Đây là từ ghép đẳng lập, gồm hai thành tố đều có nghĩa. Trong đó, Quản bao gồm các loại nhạc cụ bằng ống, thổi hơi được như sáo, tiêu, sênh, địch,... Huyền là các nhạc cụ gảy dây được như cầm, sắt, tỳ bà,... Quản huyền thường đi đôi với ti trúc 丝竹 (đàn sáo) mà ta quen gọi tơ trúc, để tạo nên bộ đôi điển hình trong âm nhạc cổ đại.
 

Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2025

WUMAO 伍毛, DƯ LUẬN VIÊN CỦA TÀU - Nguyễn Văn Tuấn

Wumao伍毛 là tiếng lóng để chỉ những “Mạ thủ”罵手
 Mạ : Mắng chửi như trong mạ lị, nhục mạ, lăng mạ
 Thủ : Tay, tay nghề như trong cao thủ, danh thủ
*
Tàu ngày xưa là nơi sản sanh ra những mạ thủ, thì Tàu ngày nay cũng có những đội quân mạ thủ, thuật ngữ tiếng Hoa hiện đại là Wumao伍毛,có âm Hán Việt là “ngũ mao” dùng để chỉ “dư luận viên:
 ngũ: đội ngũ
 mao (danh): lông; (động): nổi giận, phát cáu...

Như thế, Wumao 伍毛  hay “ngũ mao” là đội ngũ của nhửng kẻ chuyên nhục mạ đối phương để kích động làm cho đối phương nổi giận, phát cáu


Tôi mới học được một danh từ mới: mạ thủ. Một cách ngắn gọn, mạ thủ là một kẻ chuyên nghề chửi. (Giống như dư luận viên ngày nay). Lịch sử ra đời của mạ thủ vẫn còn mang tính thời sự ngày nay.

Theo tác giả Huy Phương (báo Người Việt), danh từ này xuất phát từ thời Hán Sở tranh hùng và Tam Quốc Chí bên Tàu. Thời đó, nhà cầm quyền huy động những người có lá phổi lớn, tiếng nói vang, và có cách chửi độc địa để làm ‘mạ thủ’. Mạ thủ chỉ có mộ việc đơn giản là chửi bới đối phương. Họ trong tư thế trần truồng, xông lên phía trước, sát cổng thành của đối phương, và tung ra những lời chửi bới tục tĩu và dơ bẩn nhứt nhắm vào đối phương. Mục đích là hạ nhục và khiêu khích đối phương bằng cách thoá mạ ông bà tổ tiên của đối phương, sao cho họ mở cửa thành để lính xông vào. Điều trớ trêu là mạ thủ là những người bị chết đầu tiên vì họ không có vũ khí khi xông trận. Họ có thể xem như là những con chốt thí cho bọn cầm quyền.

TỪ HÁN VIỆT, ÂM HÁN VIỆT - Tri thư đạt lễ 知書達禮

 
                  

Trong tiến trình tiếp xúc văn hoá, nhiều yếu tố ngôn ngữ, đặc biệt là từ vựng tiếng Hán đã du nhập vào tiếng Việt. Những yếu tố vay mượn này được người Việt tiếp nhận, biến đổi và đồng hóa, qua thời gian dần hình thành nên hệ thống lớp từ có số lượng lớn là từ Hán Việt, được sử dụng rộng rãi và ổn định trong tiếng Việt hiện nay.
 
Có thể nói từ Hán Việt và từ vựng tiếng Hán hiện đại vẫn duy trì mối quan hệ họ hàng gần gũi, do cùng bắt nguồn từ một gốc chung trong lịch sử tiếng Hán. Song do sự khác biệt về lịch sử, văn hóa và lối tư duy của hai dân tộc qua thời gian nên giữa tiếng Hán, âm Hán Việt và từ Hán Việt tồn tại những khác biệt quan trọng. Cần phân biệt chúng như sau:

Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2025

VẤN VƯƠNG, VƯƠNG VẤN, VẤN VÍT - Hoàng Tuấn Công


 
Đề thi môn tiếng Việt lớp 4 của Trường Tiểu học Điện Biên 1 (TP Thanh Hoá, năm học 2021 – 2022), yêu cầu học sinh nhận diện từ láy như sau:

“Từ nào không phải từ ghép: A. châm chọc; B. vương vấn; C. phẳng lặng; D. nóng nực”.
Học sinh khoanh tròn vào phương án “B. vương vấn”, và được chấm là đúng (câu 7: 0,5 điểm).
 
Từ điển từ láy tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ - Hoàng Văn Hành chủ biên) cũng thu thập, giảng từ “vương vấn”“Cứ phải nghĩ đến, nhớ đến mà không thể dứt ra được mặc dù không muốn thế”, và lấy ví dụ “Vương vấn chuyện gia đình. Xa nhau rồi mà lòng còn vương vấn”; còn ở mục từ “vấn vương” thì giảng là “như vương vấn”, ví dụ “Suy nghĩ vấn vương; Cho nắng hường vấn vương muôn ngàn sợi” (Hàn Mạc Tử)”.
 
Tuy nhiên, “vương vấn” hay “vấn vương” đều là từ ghép đẳng lập, không phải từ láy. Cụ thể:

-"Vương" nghĩa là mắc vào, dính vào, thường là vô tình, ngoài ý muốn (như "Bỏ thì thương, vương thì tội" – Tục ngữ; "Tiếc thay chút nghĩa cũ càng, Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng" - Kiều).

- "Vấn" , gốc Hán vốn chỉ việc mặc đồ tang thời xưa, phải để đầu trần, cột tóc, dùng vải gai quấn đầu. Về sau, từ này được dùng với nghĩa quấn, cột, cuộn thành nhiều vòng (như vấn khăn; vấn tóc nói chung, cùng nghĩa với vấn trong vấn vít).

Thứ Sáu, 7 tháng 11, 2025

KHAI CĂN 開根 – Ung Chu, Hán-Việt Thông Dụng, Thuật ngữ Toán học



EXTRACT - KHAI CĂN
EXTRACTION - PHÉP KHAI CĂN

Phép khai căn là phép toán ngược lại với phép nâng lên luỹ thừa, hành động thực hiện phép khai căn để tìm căn gọi là "khai căn" 開根.
- khai : mở, xẻ, phân tách, phân li, như trong "li khai", "khai trừ", "extract" tiếng Anh nghĩa là phân tách, chiết xuất, trích li

- căn : gốc rễ, thuật ngữ toán học này trong các ngôn ngữ đều xuất phát từ nghĩa đen là gốc rễ, như "root" tiếng Anh, "racine" tiếng Pháp, "Wurzel" tiếng Đức... "Radical" tiếng Anh có gốc Latin "radix" nghĩa là gốc rễ. Tiếng Nhật đọc là "kon" こん, tiếng Hàn đọc là "geun" .

"Khai căn" 開根 là từ ta mượn tiếng Trung Quốc (giản thể: 开根). Khai căn bậc hai (ngược với bình phương) được gọi là "khai phương" 開方 (giản thể: 开方). Tiếng Trung Quốc gọi căn bậc hai (tiếng Anh: squareroot) là "bình phương căn" 平方根. "Bình phương" 平方 nghĩa đen là hình vuông phẳng, cũng như "square" tiếng Anh, diện tích hình vuông là bình phương độ dài cạnh.
                                                                                  
                                                                                  Ung Chu
                                                                        Hán-Việt Thông Dụng
                                                                       #Thuật_ngữ_Toán_học

Thứ Năm, 6 tháng 11, 2025

ĐẠI HỒNG THỦY 大洪水 – Ung Chu



- đại : to, lớn
- hồng : lũ, lụt (nước lớn gây ngập), chuyển nghĩa thành tính từ nghĩa là to lớn, dùng thông với chữ "hồng"
- thuỷ : nước.

Lụt cũng được gọi là "hồng thuỷ" 洪水 / 鴻水 nghĩa đen là nước lớn. "Đại hồng thuỷ" 大洪水 nghĩa là lũ lụt lớn. Tiếng Nhật đọc là "dai-kō-zui" だいこうずい, tiếng Hàn đọc là "dae-hong-su" 대홍수.

Nhiều cộng đồng trên thế giới cùng có truyền thuyết về đại hồng thuỷ, kể về trận lụt cực lớn trong quá khứ xa xôi nhấn chìm khắp nơi. Dạng thảm hoạ trong truyền thuyết này của các cộng đồng lớn trên thế giới (vùng Lưỡng Hà, vùng Ấn Độ, vùng Trung Hoa, vùng Do Thái...) thường gắn với những đấng siêu nhiên.
                                                                                             Ung Chu

Thứ Bảy, 25 tháng 10, 2025

NGŨ ÂM 五音 - Bài viết của Mỹ Trinh


Hình ảnh: Ngũ âm, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ

“Cung thương làu bậc ngũ âm”
Âm nhạc từ lâu đã được xem như một phần quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. Trong văn hóa phương Đông, âm nhạc không chỉ để giải trí, mà còn gắn với quan niệm về sự hài hòa giữa trời, đất và người. Từ trong bối cảnh ấy, Nguyễn Du khi viết “Truyện Kiều” đã mượn hình ảnh ngũ âm - năm cung bậc cơ bản trong nhạc lý cổ truyền để ca ngợi tài đàn của Thúy Kiều:
 
“Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.”

Thứ Ba, 21 tháng 10, 2025

GỌI LÀ VIỆT KIỀU HAY NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI ? – Lê Vĩnh Húy



 “Kiều” đây không phải nàng Kiều của Nguyễn Du, mà là chữ Kiều trong “Việt kiều”. Chữ Kiều nầy có nhiều nghĩa:
Khi là động từ, Kiều là ăn nhờ ở đậu. Thí dụ: “Kiều cư” là ăn nhờ ở đậu nơi đất khách;
Là danh từ, Kiều chỉ người sống nhờ làng nước khác. Thí dụ: “Hoa kiều” là người có quốc tịch Tàu sống ở nước ngoài [1];
Là phó từ, thì nghĩa là tạm thời. Thí dụ: “Kiều trí” là mượn tên đất này đặt cho đất khác [2].
Dù thuộc từ loại nào, “Kiều” cũng hàm ý tạm bợ, trôi nổi bềnh bồng.
 
Trở lại với “Việt kiều”, lâu nay người ta vẫn dùng danh từ này để gọi chung những người Việt Nam sống ngoài đất nước, cách gọi này vừa hàm hồ vừa bất cập.

Thứ Tư, 15 tháng 10, 2025

NỖ LỰC (努力) NGHĨA LÀ "GẮNG SỨC" CÓ ĐÚNG KHÔNG? - Vinhhuy Le



Đây là nói về chữ “Nỗ lực” trong bài thơ Trần Quang Khải làm lúc theo vua Trần về kinh:
 
TỤNG GIÁ HOÀN KINH SƯ
從駕還京師
 
Đoạt sáo Chương Dương độ
奪槊章陽渡
Cầm Hồ Hàm Tử quan
擒胡鹹子關
Thái bình tu nỗ lực
太平須努力
Vạn cổ thử giang san
萬古此江山
 
Bản dịch của cụ Trần Trọng Kim:
 
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy muôn thu
 
KHÚC MẮC Ở CHỮ “NỖ LỰC”.
 
Nỗ lực là “cố gắng hết sức”. Hết sức vì giống gì? Vì nền thái bình, tức thịnh trị cho nhà Trần. Người ta thường chỉ nỗ lực để nhằm mục đích nào đó chưa hoàn thành. Thí dụ: “Nỗ lực phấn đấu đặng lên chức, lên lương”. Ở đây đã đuổi xong giặc Nguyên, là thái bình rồi; vậy còn nỗ lực vì thái bình nào nữa?

Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2025

SẢ 𦲺 - Bài viết của Khánh Ly


Hình ảnh: Sả, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ

“Mạ thường về trong giấc mơ con
Cơm muối sả, tập tàng, rau đắng…”
                                    (Mạ, Võ Quê)
 
Sả, chữ Nôm viết 𦲺. Nó còn có nhiều tên gọi khác như sả chanh, hương mao, cỏ sả,... với tên khoa học là Cymbopogon citratus, thuộc họ lúa, mọc nhiều ở vùng nhiệt đới. Ở nước ta, từ đồng bằng đến miền núi, hầu như gia đình nào cũng trồng vài bụi sả quanh vườn. Cây sả mọc thành bụi, cao khoảng 0,8 đến hơn 1,5m. Các bẹ lá ôm khít tạo thành “tép sả”. Lá sả hẹp như lá lúa, bề mặt có lông nhám, toàn thân tỏa hương tinh dầu vừa mát vừa nồng, rất dễ nhận ra, từ lâu đã in sâu vào ký ức bếp Việt.
 

Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2025

RAU MÁ (蔞䔍) - Bài viết của Khánh Ly


Hình ảnh: Rau má, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ

“Mình về ta chẳng cho về
Nắm tay kéo lại, mình thì ở đây
Rau má là lá lan dây
Đã trót dan díu, ở đây đừng về
Rau má là lá lan thề
Đã trót dan díu đừng về ở đây.”
                                   (Ca dao)

Rau má, chữ Nôm viết 蔞䔍, còn gọi là tích tuyết thảo hay lôi công thảo, danh pháp khoa học là Centella asiatica, thuộc họ Hoa tán (Apiaceae). Loại cây này dễ sống, thường thấy ở những nơi ẩm ướt, râm mát như bờ mương, thung lũng hay đất tơi xốp, phổ biến ở các vùng nhiệt đới châu Á, Australia và đảo Thái Bình Dương.

Thứ Tư, 1 tháng 10, 2025

TIẾNG QUAN HOẢ 官話 /ku̯an³³ xu̯a²⁴/ - Ưng Chu, Hán-Việt Thông Dụng.



Các bạn nghe đến tiếng Quan hoả chưa? Đây là tên gọi của tiếng Quan thoại Tây Nam được dùng tại một vùng lãnh thổ Trung Quốc tiếp giáp miền núi phía Bắc Việt Nam, như tại Vân Nam
雲南, Tứ Xuyên 四川, Trùng Khánh 重慶, Quý Châu 貴州, Quảng Tây 廣西...
"Quan hoả" là cách đọc từ "Quan thoại" 官話 bằng tiếng Quan thoại Tây Nam /ku̯an³³ xu̯a²⁴/. Vì sự đa dạng về bản ngữ, các cộng đồng ngôn ngữ chung sống tại khu vực kể trên sử dụng tiếng Quan thoại Tây Nam làm ngôn ngữ chung (lingua franca). Tại miền núi phía Bắc Việt Nam gần với biên giới tại Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, tiếng Quan hoả được dùng bởi một số cộng đồng người Hmong (Mông), người Cờ Lao, người Tu Dí... làm ngôn ngữ giao tiếp chung bên cạnh bản ngữ của mình hoặc tiếng Việt. Người thuộc các dân tộc này cũng sinh sống tại các tỉnh nói tiếng Quan hoả ở Trung Quốc.

Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2025

TANG ĐIỀN, TANG HẢI, TANG THƯƠNG - Mỹ Trinh.



Bể dâu” vốn là cách nói vắn tắt của thành ngữ Hán văn “thương hải tang điền” (蒼海桑田), nghĩa là “biển xanh biến thành ruộng dâu”. Điển tích này xuất phát từ “Thần tiên truyện”: tiên nữ Ma Cô từng kể rằng trong khoảng thời gian quen biết Vương Phương Bình, bà đã ba lần chứng kiến biển Đông biến thành ruộng dâu. Ý niệm ấy trở thành một hình ảnh ẩn dụ để chỉ sự biến đổi lớn lao, khôn lường của vũ trụ.
 

Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2025

TÔI CẢM THẤY XẤU HỔ - Khuất Đẩu

"Khi tôi đọc nhẫm một câu thơ, hay một câu nhạc hay; tôi thường nhớ về các ông Tây truyền đạo này với lòng biết ơn đầy kính trọng...".
 
Cha-Alexandre-De-Rhodes

Tôi thực sự cảm thấy xấu hổ! Hơn 300 năm trước, bằng 24 chữ cái và 5 dấu các giáo sĩ dòng Tên và cha Đắc Lộ đã cơ bản ghi lại trên giấy thứ tiếng “hót như chim” của người Việt.
Đó là cánh cửa thần kỳ mở ra cho cả Đàng Trong và Đàng Ngoài cơ hội tiếp cận với văn minh Âu châu.
 

Thứ Năm, 25 tháng 9, 2025

THỦY TẠ 水榭 – Ung Chu



Các công trình xây trên mặt nước hoặc bao quanh là nước thường được gọi là "thuỷ tạ", ở Việt Nam có nhiều nhà hàng thuỷ tạ. Một số người cho rằng "thuỷ tạ" là cách viết sai chính tả, lập luận rằng phải là "thuỷ toạ" với "toạ" nghĩa là ngồi.

Tuy nhiên, "thuỷ tạ" 水榭 là từ lâu đời trong Hán ngữ, tiếng Nhật đọc là "sui-sha" すいしゃ, tiếng Hàn đọc là "su-sa" 수사.

- thuỷ : nước
- tạ : nhà xây trên nền cao (đài, bệ, sàn...), tức là thay vì xây trực tiếp trên mặt đất thì sẽ làm một cái nền nâng lên rồi mới xây, chữ này mang bộ "mộc" (cây gỗ) và kí âm bằng chữ "xạ" .
 
Thôi Thực 崔湜 thời Đường có thơ đề rằng:
 
水榭宜時陟
山樓向晚看
 
Thuỷ tạ nghi thời trắc
Sơn lâu hướng vãn khan
 
Nghĩa là:

Leo lên thuỷ tạ vào thời điểm thích hợp, ngắm nhìn nhà lầu ở núi lúc nhá nhem.
                                                                                           Ung Chu

Thứ Hai, 22 tháng 9, 2025

HUY HOÀNG (輝煌)- Bài viết của Khánh Ly


Hình ảnh: Huy hoàng (輝煌) -  thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ.

"Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối,
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm."
                      (Giục giã, Xuân Diệu)
 
Huy hoàng, chữ Hán viết 輝煌 - một từ gợi lên nét nghĩa rực rỡ, lộng lẫy trong tiếng Việt. Huy hoàng thường được dùng trong đời sống và văn chương, ngoài nét nghĩa rực rỡ thì còn miêu tả thành tựu xuất sắc, thời kỳ vẻ vang hoặc những khoảnh khắc tỏa sáng của con người.
 
Trong đó, Huy có nghĩa là ánh sáng rực rỡ, giống như sách Thuyết Văn Giải Tự chú rằng “Huy, quang dã”, tạm dịch là: Huy, nghĩa là ánh sáng vậy. Chữ này thuộc loại hình thanh, gồm bộ quang biểu ý, gợi đến sự sáng sủa, bao quát mọi nguồn sáng nói chung và chữ quân cho âm. Ngoài huy hoàng, từ quang huy mà ta hay gặp dùng nghĩa của chữ Huy này.
Hoàng cũng có nghĩa là ánh sáng rực rỡ. Đây là chữ hình thanh kiêm hội ý, gồm bộ hỏa biểu ý ánh lửa cháy rực. Chữ hoàng vừa là phần cho âm, vừa tượng trưng cho sự cao quý và rực rỡ của bậc vương giả. Chữ này bổ sung cho chữ Huy sắc thái lộng lẫy, như ánh lửa bùng cháy kiêu sa. 

Thứ Năm, 11 tháng 9, 2025

XÃ TẮC 社稷 - Nguyễn Việt sưu tầm



là thần Đất.
TẮC là thần lúa. (Tắc là một thứ lúa, hột gạo màu vàng, xưa cho là đứng đầu các thứ lúa gạo, nên thần coi các thứ lúa cũng gọi là Tắc).
Xã tắc ban đầu chỉ thần đất và thần lúa, rồi mang nghĩa “chỗ tế thần đất, thần lúa”. Chỗ tế này được gọi là XÃ TẮC ĐÀN (社稷壇), là một trong các loại đàn tế cổ, được các vị Vua cho lập để tế Xã thần (Thần Đất) và Tắc thần (tức Thần Nông) - hai vị thần của nền văn minh lúa nước.
 Xưa kia, hễ họ vua này mất về họ vua kia, thì nơi thờ thần XÃ-TẮC cũng đổi thay theo. Vì thế, XÃ TẮC mở rộng nghĩa là “đất nước” và thường được gộp chung với “giang sơn” để có cách gọi  “giang sơn xã tắc”.
 
                                                                           Nguyễn Việt sưu tầm

Thứ Tư, 10 tháng 9, 2025

“VIỂN VÔNG" HAY “VIỄN VÔNG"? - Tiếng Việt giàu đẹp



Nguồn: Tiếng Việt giàu đẹp

“Thực tế chút đi, đừng có mà…”. Trong trường hợp này, ta cần điền gì vào dấu ba chấm? “Viển vông" hay “viễn vông"?
 
Nhiều người căn cứ vào chữ “viễn" với nghĩa “xa xôi" mà kết luận “viễn vông" là cách dùng đúng. Thực tế, các tư liệu chúng tôi tra cứu được đã phản ánh điều ngược lại. 
Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức giảng: 
“Viển vông: Vu vơ, không có bằng chứng gì cả: Câu chuyện viển vông”. Từ điển tiếng Việt do cụ Hoàng Phê chủ biên cũng ghi nhận: “Viển vông: rất xa rời thực tế, không thiết thực: Mơ ước viển vông. Chuyện viển vông”…
Như thế, “viển vông" mới là từ chính xác.
 

NGUYÊN VĂN HAI CÂU THƠ CỦA BÙI GIÁNG – Dũng Hoàng

Nhân có một người hỏi Bùi Giáng viết:
“dạ thưa (1) bây giờ / vẫn còn (2) bên bờ (3)”...

Thì:
(1) là "xứ Huế" hay "phố Huế"?
(2) "núi Ngự" hay "núi ngự?"
(3) "sông Hương" hay "sông hương"?
Xin trình làng nguyên văn bài thơ của thi sĩ đăng trên tạp chí Tư Tưởng, số 1, ngày 15 tháng 3 năm 1971, trang 49.


                                                                                      Dũng Hoàng