BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC
Hiển thị các bài đăng có nhãn LA THỤY. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn LA THỤY. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 2 tháng 12, 2025

SÁCH QUÝ NHẬN ĐƯỢC TRONG THÁNG 11.2025 – Ngô Hương Thủy

Nhà văn Ngô Hương Thủy viết về tập sách CHỮ NGHĨA VĂN CHƯƠNG của La Thụy.
 

* Đất khổ thường nẩy sinh người tài. Tiếp nối những Nguyễn Hữu Liêm, Lê Trạch Cam, Nguyễn Đức Tùng… Hôm nay chúng ta có thêm La Thụy, bút danh của Đoàn Minh Phú.
 
Từ quê nghèo Quảng Trị, sau Mùa hè đỏ lửa, cậu bé đi theo đoàn lưu dân vào Nam tìm đất sống. Ở vùng kinh tế mới La gi - Bình Thuận, vượt qua bao gian khổ, La Thụy đã vươn lên, trưởng thành với nghiệp nhà giáo - nhà văn - nhà nghiên cứu.
 

Thứ Hai, 10 tháng 11, 2025

TÔI ĐỌC “CHỮ NGHĨA VĂN CHƯƠNG” CỦA LA THỤY- Nguyễn Văn Trị



Mình nhận được tác phẩm "Chữ Nghĩa Văn Chương" của nhà văn La Thụy (Đoàn Minh Phú) gửi tặng qua đường bưu điện, cùng lời nhờ chuyển tặng đến một vài thầy cô và bạn đồng môn.
Trước hết xin cám ơn tình cảm bạn dành cho mình và cũng có vài cảm nhận sau khi đọc (dù tuần lễ này khá bận rộn).
 
Về tác giả La Thụy
 
La Thụy là bút danh của Đoàn Minh Phú, cựu học sinh trường TH Nguyễn Hoàng Quảng Trị niên khoá 1968 -75, giáo viên về hưu tại La Gi, Bình Thuận (cũ).
Ngoài công việc giảng dạy, anh dành trọn đam mê cho văn chương, thể hiện qua vai trò thành viên Hội Văn học Nghệ thuật Bình Thuận và là đồng quản trị trang blog Văn Nghệ Quảng Trị (cùng anh Nguyễn Khắc Phước, cựu học sinh Nguyễn Hoàng khóa 64-71). Trang blog này là nơi giới thiệu những cây bút có gốc gác quê hương Quảng Trị và các tỉnh miền Trung, kho lưu trữ bài viết được chọn lọc từ năm 2008 đến nay.
 

Thứ Năm, 11 tháng 9, 2025

KIM DUNG VIẾT “TRIỆU MINH” HAY “TRIỆU MẪN”? - La Thụy sưu tầm và biên tập

Nhiều người cho rằng dịch giả Từ Khánh Phụng trước 1975 trong bản "Cô gái đồ long" dịch sai tên nhân vật là TRIỆU MINH 趙明. Các bản dịch "Ỷ thiên đồ long ký" hiện nay nhân vật này là TRIỆU MẪN 赵敏
 

Facer John Tran lên tiếng: 
"Bản gốc đăng lần đầu trên Minh Báo viết 趙明 TRIỆU MINH, bản phim do TVB sản xuất năm 1978 cũng ghi tên nhân vật là 趙明  TRIỆU MINH,
Kim Dung không đặt’ thì ai đặt? Trước khi chỉ trích dịch giả, làm ơn tìm hiểu bản gốc của đoạn mình đang chỉ trích."
 
Tự điển Bách khoa toàn thư Wikipedia ghi:
 
"Trong bản in lần thứ nhất của Ỷ thiên đồ long ký, Triệu Mẫn có tên là Triệu Minh (Zhao Ming), tên thật là Minh Minh Đặc Mục Nhĩ (Mingming Temür), phong hiệu là Triệu Minh quận chúa. Trong bản in lần thứ hai, Triệu Minh đổi tên là Triệu Mẫn (Zhao Min) 赵敏, tên thật là Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ (Minmin Temür), phong hiệu là Triệu Mẫn quận chúa. Triệu Minh hay Triệu Mẫn đều là tên Hán do cô tự đặt cho mình.
Kim Dung miêu tả về Triệu Mẫn như sau: "Xinh đẹp vô cùng, nhan sắc diễm lệ, mặt sáng như ngọc, mắt trong như nước, nét cười dịu dàng, diễm lệ. Chỉ trong một hai câu nói cũng không thể miêu tả được hết vẻ đáng yêu, thuần khiết và xinh xắn của nàng".
 
Bản gốc đăng lần đầu trên Minh Báo viết 趙明 TRIỆU MINH

Thứ Bảy, 5 tháng 7, 2025

VÀI LỜI VỚI ANH LA THUỴ NGƯỜI TẶNG SÁCH - Trương Công Hải



La Thụy, một đồng môn không quen nhưng biết, do đọc bài của anh trên facebook.             
Nhận được tập tạp luận Chữ Nghĩa Văn Chương của anh khi đang ngồi café, mấy bạn cứ chuyện trò, còn tôi thì tranh thủ đọc, lướt vội.
Sách do Hội Nhà Văn xuất bản, trình bày không hoa hoè, giản đơn nhưng đẹp.
 

Thứ Năm, 26 tháng 6, 2025

CHÚC MỪNG VÀ CẢM ƠN NHÀ THƠ LA THUỴ - Trần Mai Ngân



Vượt gần 300km khoảng cách Bình Thuận và Vĩnh Long, hôm qua 25/6/2025 quyển Tạp Luận CHỮ NGHĨA VĂN CHƯƠNG của tác giả La Thuỵ đã đến địa chỉ nhà tôi.
 
Cầm quyển sách trên tay, cảm nhận đầu tiên là sự nền nã, nhã nhặn nhưng không kém phần trang trọng trong việc thiết kế bìa về kích cỡ và màu sắc - tất cả rất hài hoà.
Quyển sách gồm 211 trang với 23 bài tham luận gồm nhiều chủ đề nhưng đều liên quan đến văn chương thật lí thú.

Thứ Hai, 2 tháng 6, 2025

PHONG, LAO, CỔ, LẠI THỰC SỰ LÀ NHỮNG BỆNH GÌ ? – La Thụy


瘋和尚 Phong Hòa Thượng (ông sư điên)

“Phong, lao, cổ, lại” từ xưa được cho là “tứ chứng nan y”, hiện có nhiều cách giải thích không thống nhất.

*
Cách hiểu được số đông chấp nhận là 4 bệnh khó chữa lành theo quan niệm của y học cổ, gồm:

(1) Phong: tức là bệnh cùi, còn gọi là bệnh phung hay bệnh hủi; 
(2) Lao: ho lao, bệnh lao phổi;
(3) Cổ: xơ gan cổ trướng;
(4) Lại: tức là ung thư.
Trong đó, có hai bệnh đã được y học ngày nay chữa lành là phong và lao.
 
Để minh chứng cho cách giải thích trên, người ta đã đưa ra câu nói dân gian: “Phong, lao, cổ, lại; tứ chứng nan y, thầy thuốc bỏ đi, trống kèn kéo tới”. Có nghĩa là 4 bệnh không chữa được, thầy thuốc “bó tay”, chỉ có chết.
Nhưng LẠI được cho bệnh ung thư thì quá mới, ung thư không phải là chứng bệnh trong y học cổ truyền.

Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2025

LẮNG NGHE “THƠ ĐỜI NGÂN VỌNG” CỦA LA THỤY – Minh Trí

Nguồn: 
https://baobinhthuan.com.vn/lang-nghe-tho-doi-ngan-vong-130225.html


“Thơ đời ngân vọng” là tên tập thơ của tác giả La Thụy (tên thật: Đoàn Minh Phú) Hội viên Hội Văn học - Nghệ thuật Bình Thuận, tập hợp 45 bài thơ, trong đó có 17 bài thơ Đường luật (gồm 12 bài thất ngôn bát cú, 5 bài thất ngôn tứ tuyệt), 14 bài lục bát cùng các bài ở những thể thơ khác.
 

Thứ Năm, 6 tháng 2, 2025

CÂU ĐỐI TẾT XƯA VÀ NAY - La Thụy sưu tầm và biên tập


              
                                     La Thụy


           CÂU ĐỐI TẾT XƯA VÀ NAY
                        La Thụy sưu tầm và biên tập

    Tiêu đề của bài viết là CÂU ĐỐI TẾT nhưng hình minh họa đầu tiên không phải là câu đối và cũng không đề cập gì đến Tết. Hơn nữa, hình thức trình bày lại bất cân phương như dạng thơ lục bát. Vâng, đó chính là hai câu: “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận. Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” trích trong bài thi kệ “Cáo Tật thị chúng” của Mãn Giác Thiền sư. Tuy không phải là câu đối nhưng chữ thư pháp quá đẹp. Hơn nữa ý thiền tràn ngập, hương xuân thơm ngát nên tôi đưa lên trên các câu đối khác.

           
             Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
             Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
                          (Mãn Giác thiền sư)


                       

                     Nguyễn Tôn Nhan 
                       (1948 - 2011)

      

   

  

  

  

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                            Lộc tiến vinh hoa gia đường thịnh
                            Phúc sinh phú quý tử tôn vinh

Ở câu đối này, chữ PHÚ () trong vế đối thứ hai (phía trái), người viết thư pháp viết nhầm thành chữ PHÚC ()
Không những chỉ riêng câu đối này, một số câu đối khác cũng không được chuẩn lắm.
Ví dụ câu đối: “Xuân tha hương sầu thương về QUÊ mẹ / Tết xa nhà buồn bã nhớ QUÊ cha”, bị lặp từ QUÊ và cùng thanh bằng trong mỗi vế. Nếu chỉnh lại ĐẤT MẸ thì đối chuẩn hơn.
Hoặc câu: “Niên hữu tứ thời xuân VI thủ / Nhân sinh bách hạnh hiếu VI tiên”. Câu đối gốc vốn là "xuân TẠI thủ"
Nhìn chung, ngoài những câu đối của các nhà nho, nhà thơ nổi tiếng, vẫn còn một số câu đối còn chưa chỉnh về từ loại, về ý, về thanh, … tôi sưu tầm và tải lên để thư giản trong những ngày cuối năm. Chúc quý bạn có nhiều niềm vui nhé!

                                                           La Thụy sưu tầm và biên tập

Thứ Năm, 30 tháng 1, 2025

CHÙM THƠ XUÂN CỦA LA THỤY

 
   

 
TỰ CẢM CUỐI NĂM
 
 Dặm trường rong ruổi ngựa phi
 Thời gian vút cánh xuân thì hụt hao
 Chồn chân dừng bước bên cầu
 Lặng nhìn nước chảy nuối màu tóc xưa
 Cánh buồm lộng gió ước mơ
 Băng qua sông biển cập bờ nơi nao?
 Vọng âm sóng vỗ dạt dào
 Bên chiều đông tận nắng đào dần phai
 Hoa tóc sương muối đang cài
 Tàn niên tự cảm thoảng bay tiếng lòng
                               
 
 CUỐI NĂM ÂM LỊCH
(Cảm đề thơ Đá Ngây Ngô)
 
Xuân về lâng lâng nào nhờ gió chở
Đáy cốc vênh hay rượu ngấm ngã nghiêng
Thèm trái cấm lòng vướng bận nghiệp duyên
Loan phụng múa tình ai đang khép mở.
 
Mắt xanh trắng tri âm còn níu mộng
Bến xuân ơi lưu luyến cõi trời xưa
Sương khói phủ bâng khuâng xuân không mùa
Thầm nguyện ước cho nguồn yêu mở rộng.
 
Ngọn nến ấy lung linh trời ảo diệu
Hương xưa nào thoang thoảng ủ tình mơ
Để ngây ngất tình tràn thơm men rượu
Hào sảng cười đồng vọng đá ngây ngô.
                                             
 
TÀN NIÊN CẢM TÁC
 
I.
Tơ xuân vương vấn đất trời
Hồn xuân bảng lảng thoảng lời mê hoa
Suốt đời mộng mị là ta
Mắt xanh nhẹ chớp nhạt nhòa tri âm.
 
II.
Chưa say nhưng dáng dật dờ
Hồn mê trí tỉnh mệt phờ xác thân
Chào nhau nửa tiếng ân cần
Khóe môi hé nụ bộn lần nhớ thương.
 
III.
Thôi xin đừng nói tỉnh mê
Thế nhân mắt trắng mệt mề đớn đau
Mơ say quên lấy nỗi sầu
Rộn ràng thế sự dãi dầu lo toan.
Cho ta ít phút thanh nhàn
Câu thơ bất chợt xuất thần thăng hoa.
 
 
VÔ THƯỜNG
(Cảm khái khi đọc truyện thần thoại Hy lạp)
 
Một thời vang bóng còn đâu
Khói sương chừ lại úa màu thời gian
Một thời xuân sắc nhựa tràn
Nhành xanh biếc lộc, hoa vàng thắm cây
Nắng chiều xế bóng hao gầy
Xiêu theo triền dốc ngấm say vị đời
Tiếng lòng ngân vọng chơi vơi
Âm xưa bóng cũ mù khơi dấu tìm
 
                                    
DƯỜNG NHƯ
 
Dường như bóng xế đường trần
Dường như cuộc sống thanh bần rồi qua
Dường như tóc muối sương pha
Dường như phấn bảng đang là vọng âm
Bên chiều một thoáng trầm ngâm...
 
*
THƠ ĐƯỜNG LUẬT
 
 
TÂN NIÊN KHAI BÚT
 
Nâng chén hòa vui ấm giọng ca
Ý tình thao thiết bút thêu hoa
Mai e ấp nụ ươm vàng nắng
Sen khẽ khàng hương ủ đượm trà
Bấc lạnh nỗi niềm đông tận nhỉ!
Rượu nồng sắc vị xuân khai a!
Lâng lâng thi tứ tươm trào giọt
Cánh mộng dần bay vào thẳm xa.
                                 
 
THƯỞNG XUÂN
 
Mai vàng đào thắm toả hương hoa
Tết đến vui xuân nào chỉ ta
Cùng hát cùng đàn, vài cốc rượu
Cũng ngâm cũng vịnh, dăm ly trà
Xôn xao tình gợn hồn đang trẻ
Xao xuyến thơ ngân ý chửa già
Khai bút lòng bừng bao nắng ấm
Bên thềm lãnh lót yến oanh ca.

 
 
Buốt lạnh tàn đông rồi cũng qua
Khoan thai xuân đến ấm bao nhà
Bâng khuâng nắng mới lừng hương tết
Biêng biếc chồi xanh thắm sắc hoa
Danh lợi: chán chê vòng tục lụy!
Rượu thơ: ngây ngất thú yên hà!
Thả hồn bay bổng cùng trăng nước
Hào sảng hát vang khúc túy ca.
 
                                   La Thuỵ

Thứ Tư, 9 tháng 10, 2024

VOI BIỂN LÀ “HẢI TƯỢNG” HAY “HẢI MÔ ? - La Thụy sưu tầm và biên tập

 



          VOI BIỂN LÀ “HẢI TƯỢNG” HAY “HẢI MÔ ?

Câu hỏi có vẻ ngớ ngẩn, khi mà ai cũng biết từ Hán Việt “tượng” là voi, tất nhiên VOI BIỂN phải là HẢI TƯỢNG. Nhưng, không phải tự dưng tôi đặt ra câu hỏi “ngớ ngẩn” trên. Việc gì cũng có nguyên do cả (như “nguyên lý túc lý” trong triết học).

Năm 1967, tôi học lớp nhất (tương đương với lớp năm hiện nay). Khi học môn Khoa Học Thường Thức, bài “động vật Bắc cực” thấy giới thiệu về gấu trắng, hải cẩu và hải mã. Nhìn hình vẽ thì con hải mã to lớn và đặc biệt có 2 cái ngà nhọn hoắt chỉa ra từ miệng. Sách Khoa Học Thường Thức lớp nhất hồi đó cho biết HẢI MÃ nặng trung bình 1,5 tấn. Tôi tự hỏi con vật to lớn, có ngà trông giống con voi, chẳng giống ngựa tí nào, tại sao không có tên là HẢI TƯỢNG mà lại mang tên HẢI MÃ. Bẵng đi một thời gian dài, đọc sách báo, tôi thấy có đề cập đến HẢI TƯỢNG. Tôi truy cập tìm hiểu “hải tượng” là con vật như thế nào, quả nhiên như suy nghĩ của tôi thời tiểu học: HẢI MÃ còn được gọi là hải tượng.

Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2024

RAU TẦN, RAU TẢO CÓ PHẢI LÀ ĐỒ CÚNG TẾ NGÀY XƯA Ở TRUNG HOA KHÔNG? La Thụy sưu tầm và biên tập


                                        Một loại rau Tần: 
Rau bợ nước

Tôi chia sẻ STT “Nguồn gốc hai chữ ‘tảo tần’ của trang face “Chiết tự chữ Hán” vào trang face của tôi. Nội dung phần đầu của STT đó như sau:
 
  “ ‘Tảo tần’là một từ để chỉ đức tính đảm đang, chịu thương chịu khó, thường là của phụ nữ. Nhưng nguồn gốc của từ này là như thế nào?
‘Tảo tần’, chữ Hán viết là 藻蘋, trong đó:
     - TẢO  là rong rêu, chỉ chung các thứ cỏ mọc ở dưới nước. Như “hải tảo” 海藻 là rong biển.
     - TẦN  còn đọc với âm "bình", có lẽ TẦN là một loại rau lục bình nổi trên mặt nước, ta thường gọi là bèo.
 Như vậy, ‘tảo tần’ là rau tảo và rau tần. Người xưa dùng rau tảo và rau tần để dâng lên cúng tổ tiên. Hái rau tảo và rau tần là việc chuyên trách của người phụ nữ xưa. Rau tần thường mọc hoang dại bên bờ suối, còn tảo thì sinh trưởng trong lòng suối như các loại rong, cả hai đều không dễ mà hái được. Do đó người vì đạo hiếu với tổ tiên mà lặn lội đi tìm rau tảo rau tần là người đảm đang, đáng khen ngợi.....”
 
Khi tôi chia sẻ bài này lên trang face của tôi, nhiều bạn vào ghi còm, khen chê và thắc mắc đủ cả. Đặc biệt có một bạn ghi còm như sau:

“Đúng là lươn lẹo suy luận cách ngờ nghệch khi tần, tảo là những thứ rau cỏ mọc hoang kém giá trị mà dám bảo đem về thờ cúng !”.
 
Tôi trả lời bạn ấy:

“Những rau cỏ mọc hoang trong thiên nhiên đâu phải là những thứ kém giá trị, có khi là thảo dược quý hiếm có giá trị rất cao như: đông trùng hạ thảo, nhân sâm, linh chi... mà người ta săn lùng đỏ mắt và đang cố gắng đem về trồng trong vườn nhưng sản phẩm thu hoạch do người trồng có phẩm chất không bằng sản vật trong thiên nhiên.
TẢO và TẦN mà người phụ nữ Trung Hoa xưa vất vả tìm kiếm và thu hái để cúng tế, hẳn là loại TẢO và TẦN đặc biệt có ý nghĩa và giá trị cao chứ đâu phải thứ tảo và tần vô giá trị, bạ đâu vơ nấy...”
 

Thứ Năm, 12 tháng 9, 2024

MÙA THU – APOLLINAIRE – BÙI GIÁNG – PHẠM DUY - HOA THẠCH THẢO - La Thụy sưu tầm và biên tập


                 

Sắc màu thu đã gieo nhiều cảm hứng cho hồn thơ tứ nhạc. Nhiều bài thơ, bản nhạc viết về THU dù đã trải qua bao năm tháng phôi pha vẫn in đậm nét trong lòng người thưởng lãm. Là người yêu nhạc (loại nhạc có air “bán cổ điển”), ai mà không thuộc các bản “Buồn tàn thu” của Văn Cao, “Giọt mưa thu”“Đêm thu”, “Con thuyền không bến”… của Đặng Thế Phong , “Thu quyến rũ” của Đoàn Chuẩn Từ Linh , “Thu vàng” của Cung Tiến, “Em ra đi mùa thu” của Phạm Trọng Cầu, “Chiếc lá thu phai” của Trịnh Công Sơn , “Mùa thu Paris” của Phạm Duy, “Thu hát cho người” của Vũ Đức Sao Biển, “Thu ca” của Phạm Mạnh Cương v.v… Đặc biệt, bản “Mùa thu Chết” của Phạm Duy, bản nhạc hay nhưng có nhiều thắc mắc về xuất xứ của ca từ.
     
Bản nhạc này lấy ý của bài thơ “L’ADIEU” của Guillaume Apollinaire, điều này có lẽ được nhiều người chấp nhận. Tuy nhiên lời Việt của bản nhạc “Mùa thu chết” thì không ít ý kiến cho rằng là do chính thi sĩ Bùi Giáng chuyển ngữ từ nguyên tác tiếng Pháp bài “L’ADIEU” nói trên, Phạm Duy chỉ phổ nhạc mà thôi. Để nhìn nhận cho khách quan, ta thử đối chiếu nguyên tác với bản dịch của Bùi Giáng và lời nhạc của Phạm Duy.
 
 a/ Bài thơ của Apollinaire:
 
           L'ADIEU
 
           J'ai cueilli ce brin de bruyère
           L'automne est morte souviens-t'en
           Nous ne nous verrons plus sur terre
           Odeur du temps brin de bruyère
           Et souviens-toi que je t'attends
 
           GUILLAUME APOLLINAIRE
 
b/Bản dịch của thi sĩ Bùi Giáng :
 
           LỜI VĨNH BIỆT
 
           Ta ngắt đi một cành hoa thạch thảo (*)
           Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
           Chúng ta sẽ không tương phùng được nữa
           Mộng trùng lai không có ở trên đời
           Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
           Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó...
 
                                                   BÙI GIÁNG
   (*) Câu này còn có dị bản:
 
          Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
 
c/ Ca từ trong bản “Mùa thu chết” của Nhạc sĩ Phạm Duy:
 
           MÙA THU CHẾT
 
           Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
           Em nhớ cho Mùa Thu đã chết rồi !
           Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
           Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
           Mùa Thu đã chết, đã chết rồi. Em nhớ cho !
           Em nhớ cho,
           Đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa!
           Trên cõi đời này, trên cõi đời này
           Từ nay mãi mãi không thấy nhau
           Từ nay mãi mãi không thấy nhau...
           Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
           Em nhớ cho Mùa Thu đã chết rồi !
           Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
           Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em.
           Vẫn chờ em, vẫn chờ em
                 Vẫn chờ....
                                    Vẫn chờ... đợi em !
 
                                            PHẠM DUY    

Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2024

CHÚT TẢN MẠN VỀ CÁC ĐOẢN VĂN “TỰU TRƯỜNG” CỦA ANATLOLE FRANCE, “TÔI ĐI HỌC” CỦA THANH TỊNH VÀ “CẢM THU” CỦA ĐINH HÙNG - La Thụy


      

CHÚT TẢN MẠN VỀ CÁC ĐOẢN VĂN “TỰU TRƯỜNG” CỦA ANATLOLE FRANCE, “TÔI ĐI HỌC” CỦA THANH TỊNH VÀ “CẢM THU” CỦA ĐINH HÙNG
                                                                                            La Thụy

Ngày khai trường với kỷ niệm mơn man làm tôi nhớ đoản văn LA RENTRE'E DES CLASSES (TỰU TRƯỜNG) của nhà văn Anatole France - trích từ quyển “Le Livre de mon ami” (Cuốn Sách Của Bạn Tôi). Đoản văn TỰU TRƯỜNG của nhà văn Anatole France có ảnh hưởng lớn tới tâm hồn nhà văn Thanh Tịnh, khi ông viết truyện ngắn TÔI ĐI HỌC. Hình ảnh chú bé A. France trong ngày tựu trường khơi dậy những tình cảm trong sáng, bỡ ngỡ và êm ái của tuổi thơ. Bởi hơn đâu hết, chính những thầy giáo vỡ lòng, thông qua trang hồi kí tuyệt vời ấy, đã đánh thức ở họ những xúc cảm đầu đời: niềm đam mê học hành và tình yêu văn chương nghệ thuật.

Xin trích dẫn các bản dịch của Phạm Tất Đắc, Bùi Bảo Trúc và bản tiếng Pháp Anatole France

* Bản dịch của Phạm Tất Đắc:

“Tôi sẽ kể cho bạn nghe những gì gợi cho tôi nhớ lại hàng năm bầu trời chập chùng của mùa thu, những bữa cơm chiều đầu tiên ăn dưới ánh đèn và những chiếc lá đang úa vàng dần trong những chòm cây run rẩy. Tôi sẽ kể bạn nghe mình đã nhìn thấy gì khi qua vườn Luxembourg vào những ngày đầu tháng mười, khi phong cảnh hơi buồn và đẹp hơn bao giờ hết, vì đó là những ngày mà lá cây rơi từng chiếc một trên bờ vai trăng trắng của các pho tượng… Điều tôi nhìn thấy lúc đó, trong vườn ấy, là một chú bé con, tay đút túi quần, cặp sách trên vai, đang bước tới trường, vừa đi vừa nhảy nhót như một chú chim sẻ. Chỉ tâm tư tôi nhìn thấy chú bé, vì đó chỉ là một bóng hình. Đó là bóng hình tôi cách đây hăm lăm năm…”
                                           (Trích một đoạn dịch của Phạm Tất Đắc)

Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2024

VÌ SAO GỌI LÀ “MƯA NGÂU, ÔNG NGÂU BÀ NGÂU... ? – La Thụy


6 cách viết NGÂU theo tự dạng chữ Nôm trong quyển “Tự Điển Tiếng Nôm” của Lê Văn Kính

Hôm nọ, anh em khi trà dư tửu hậu có người thắc mắc vì sao gọi là “mưa ngâu”, vì sao gọi là “ông ngâu bà ngâu”. Tất nhiên, truyền thuyết Ngưu Lang Chức Nữ được đưa ra để giải thích. Người thắc mắc lại hỏi vậy sao không gọi là “mưa ngưu”, “ông ngưu bà ngưu”. Một ông bạn cho rằng “ngâu” là cách đọc chệch chữ Ngưu. Thế là một ông bạn khác cười chế nhạo: “mưa ngưu”“mưa trâu” “ông ngưu bà ngưu”“ông trâu bà trâu” à !?!  Vì sao có sự đọc chệch như thế ? Mà vì sao không đọc chệch theo cách khác đi?
 
Ông bạn khác lại cho rằng:
Gọi là “mưa ngâu”, “ông Ngâu bà Ngâu” vì loài hoa ngâu gắn liền với câu chuyện tình Ngưu Lang – Chức Nữ từ xa xưa. Hoa ngâu mang ý nghĩa về một tình yêu thủy chung, với khát vọng tự do trong tình yêu.  Nhưng ông bạn lại không nêu được sự liên quan giữa Ngưu Lang Chức Nữ và hoa ngâu như thế nào trong truyền thuyết.
 
Tôi nghĩ ông bà của ta xưa gọi là “mưa ngâu”, “ông ngâu bà ngâu” chắc có lý do, mình thử tra tìm tiếng “NGÂU” trong chữ Nôm (chữ viết của ông bà ta hồi xưa) xem sao! Chữ Nôm vốn mượn âm và chữ của Hán Tự mà, nên chắc chắn có liên quan về cách viết, cách đọc thôi.
 
Hỏi thăm những bậc tiền bối về Hán Nôm, họ cho biết có tới 6 cách viết NGÂU theo chữ Nôm. Đó là âm đọc chữ Hán “ngưu” (trâu); kế tiếp là: chữ “ngưu” bộ mộc, chữ “ngưu” bộ thảo; chữ “ngô” bộ mộc; chữ “ngô” bộ thảo; chữ “ngao” bộ mộc.
 
Tra từ điển Hán Nôm trên mạng, tôi tìm ra chỉ có 4 cách viết. 



Vẫn còn thiếu 2 cách viết sau :
 - NGÂU là âm Nôm đọc chữ đọc chữ Hán “ngưu” có bộ mộc: Hoa ngâu.
- NGÂU là âm Nôm đọc chữ đọc chữ Hán “ngao” có bộ mộc: Hoa ngâu.