I. PHẠM DUY, PHẢI YÊU NƯỚC ĐẾN THẾ NÀO THÌ MỚI LÀM ĐƯỢC NHẠC NHƯ VẬY
Trong một chuyến đi chơi xa với nhà thơ Lê Đạt và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, bà Thụy Khuê, nhà lý luận phê bình văn học Việt Nam, định cư tại Pháp, kể lại: Trong xe, tôi để cassette nhạc kháng chiến của Phạm Duy, không nhớ rõ là khi nghe đến bài nào, Quê Nghèo, Bà Mẹ Gio Linh, hay Về Miền Trung, Lê Đạt buột miệng, phải yêu nước như “nó” mới làm được nhạc như thế. Còn Nguyễn Huy Thiệp thì bảo, nghe nổi cả da gà.
Câu chuyện chỉ có như thế thôi nhưng khi đọc, tôi rất thích. Thích, vì cái cách mà họ (Thụy Khuê, Lê Đạt, Nguyễn Huy Thiệp) nói, nó hạp bụng tôi, hạp với suy nghĩ của tôi.
Danh ca Tuấn Ngọc nói thẳng về bố vợ Phạm Duy: "Có một điều kỳ lắm" Vừa qua, tại một livestream, danh ca Tuấn Ngọc đã nhắc
về bố vợ mình là đại nhạc sĩ Phạm Duy. Ông nói: "Tôi
càng hát nhạc Việt Nam, càng nghiên cứu nhiều về nhạc Việt tôi lại càng yêu nhạc
sĩ Phạm Duy. Có một điều kỳ lắm, mỗi lần nhắc đến ông Phạm Duy tôi lại càng cảm
động vì đối với tôi, cuộc đời này phải biết ơn ông. Tôi
biết ơn ông Phạm Duy vì không ai đem đến cho xứ sở Việt Nam một kho tàng âm nhạc
lớn như ông. Ông Phạm Duy có một không hai. Bây
giờ AI có thể làm nhạc, làm được mọi thứ nhưng không bao giờ làm được như ông
Phạm Duy. Chúng ta sẽ không bao giờ có được những người nhạc sĩ như Phạm Duy. Tôi
may mắn vì sinh ra ở thời kỳ vàng son của nền tân nhạc Việt Nam với những nhạc
sĩ tài hoa như thế, cái mà giới trẻ ngày nay khó có được vì sinh ra hai thời
khác nhau. Từ
thời còn trẻ, ông Phạm Duy đã viết được trường ca nói lên tình cảm dân tộc, con
người Việt Nam, từ dân ca tới văn hóa, nghe mà rùng mình vì quá hay".
Nhà thơ Bùi Giáng qua nét vẽ của họa sĩ Trương Đình Uyên,
Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 tại làng
Thanh Châu, xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, là con thứ của ông
Bùi Thuyên và bà vợ thứ hai là bà Huỳnh Thị Kiền nên được gọi là Sáu Giáng.
Phạm Duy sáng tác Tình Ca vào năm một ngàn chín trăm
năm mươi hai. Tình Ca là tình yêu của một người Việt Nam đối với quê
hương, đất nước Việt Nam của mình. Yêu nước chính là yêu tiếng Việt, tiếng cha sanh mẹ đẻ,
tiếng ầu ơ trưa hè, tiếng hò ơi ngoài đồng, cả tiếng khóc trẻ thơ lẫn tiếng cười
đôi lứa, cứ thế, qua bao năm bao tháng, theo mệnh nước nổi trôi. Yêu nước chính là yêu giang sơn gấm vóc, yêuTrường Sơn hùng vĩ, yêu dòng Cửu Long xanh ngắt
mơ màng, yêu bãi bồi sông Hồng, yêu lững lờ sông Hương, vốn từ ngàn xưa, trong
cùng một dải nối liền tình nam nghĩa bắc. Yêu nước chính là yêu giống nòi dân Việt, yêu những
thôn nữ, những nông phu chân lấm tay bùn, yêu cả các triều đại xa xưa, biết
thương dân và vì dân mà giữ gìn bờ cõi. TÌNH CA không chỉ là một ca khúc về tình yêu, tình yêu
non nước, mà TÌNH CA còn là một bài thơ, bài ca dao, dân ca, mượt mà, ngọt
ngào, dịu dàng và vô cùng sâu lắng.
1. Trong sự nghiệp sáng tác đồ sộ của mình, Phạm Duy đã
có rất nhiều ca khúc, mà phần lời, lấy từ thơ của nhiều nhà thơ nổi tiếng. Một
trong những nhà thơ đó là Phạm Thiên Thư, với bốn bài thơ tiêu biểu, được phổ
thành nhạc: Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng,
Ngày Xưa Hoàng Thị, Em Lễ Chùa Này, Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu. Cả bốn bài này, theo tôi, nếu đánh giá là hay, sẽ trật
lất. Đánh giá đúng, và đúng đến từng chữ, thì phải là rất-hay,
rất-rất-hay. Thế hệ tôi, không ai là không biết, tệ lắm thì cũng,
không ai là chưa từng nghe qua một lần: rằng
xưa có gã từ quan / lên non tìm động hoa vàng ngủ say. Phạm Thiên Thư, tức Thích Tuệ Không, từng cạo đầu, mặc
áo nâu sòng, ở trong chùa đến chín năm. Đi tu, cũng là chuyện bất đắc dĩ, nhưng
nhờ vậy mà ông ngộ ra được nhiều điều: bước
chân tìm chán ta bà / ngừng đây nó hỏi đâu là vô minh. Cho nên, thơ ông, đậm vị thiền, lời thơ nhẹ nhàng,
trong sáng, thanh thoát, ít nhuốm màu tục lụy, thế gian: gót chân đất Phật trổ
hằng hà sa. Nếu có yêu, nếu có nhớ, thì đó cũng chỉ là yêu, là nhớ,
thấp thoáng, xa xôi, khói sương, huyền ảo, hư huyễn, vô thường: thì thôi tóc ấy phù vân / thì thôi lệ ấy còn
ngần dáng sương.
Sắc màu thu đã gieo nhiều cảm hứng cho hồn thơ tứ nhạc. Nhiều bài thơ, bản nhạc viết về THU dù đã trải qua bao năm tháng phôi pha vẫn in đậm nét trong lòng người thưởng lãm. Là người yêu nhạc (loại nhạc có air “bán cổ điển”), ai mà không thuộc các bản “Buồn tàn thu” của Văn Cao, “Giọt mưa thu”, “Đêm thu”, “Con thuyền không bến”… của Đặng Thế Phong , “Thu quyến rũ” của Đoàn Chuẩn Từ Linh , “Thu vàng” của Cung Tiến, “Em ra đi mùa thu” của Phạm Trọng Cầu, “Chiếc lá thu phai” của Trịnh Công Sơn , “Mùa thu Paris” của Phạm Duy, “Thu hát cho người” của Vũ Đức Sao Biển, “Thu ca” của Phạm Mạnh Cương v.v… Đặc biệt, bản “Mùa thu Chết” của Phạm Duy, bản nhạc hay nhưng có nhiều thắc mắc về xuất xứ của ca từ.
Bản nhạc này lấy ý của bài thơ “L’ADIEU” của Guillaume Apollinaire, điều này có lẽ được nhiều người chấp nhận. Tuy nhiên lời Việt của bản nhạc “Mùa thu chết” thì không ít ý kiến cho rằng là do chính thi sĩ Bùi Giáng chuyển ngữ từ nguyên tác tiếng Pháp bài “L’ADIEU” nói trên, Phạm Duy chỉ phổ nhạc mà thôi. Để nhìn nhận cho khách quan, ta thử đối chiếu nguyên tác với bản dịch của Bùi Giáng và lời nhạc của Phạm Duy. a/ Bài thơ của Apollinaire: L'ADIEU J'ai cueilli ce brin de bruyère L'automne est morte souviens-t'en Nous ne nous verrons plus sur terre Odeur du temps brin de bruyère Et souviens-toi que je t'attends GUILLAUME APOLLINAIRE b/Bản dịch của thi sĩ Bùi Giáng : LỜI VĨNH BIỆT Ta ngắt đi một cành hoa thạch thảo (*) Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi Chúng ta sẽ không tương phùng được nữa Mộng trùng lai không có ở trên đời Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó... BÙI GIÁNG (*) Câu này còn có dị bản: Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo c/ Ca từ trong bản “Mùa thu chết” của Nhạc sĩ Phạm Duy: MÙA THU CHẾT Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo Em nhớ cho Mùa Thu đã chết rồi ! Mùa Thu đã chết, em nhớ cho Mùa Thu đã chết, em nhớ cho Mùa Thu đã chết, đã chết rồi. Em nhớ cho ! Em nhớ cho, Đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa! Trên cõi đời này, trên cõi đời này Từ nay mãi mãi không thấy nhau Từ nay mãi mãi không thấy nhau... Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo Em nhớ cho Mùa Thu đã chết rồi ! Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em. Vẫn chờ em, vẫn chờ em Vẫn chờ.... Vẫn chờ... đợi em ! PHẠM DUY
Saigon 1972. Ðây là lúc những khổ đau của Tết Mậu Thân chưa kịp phai mờ trong đời sống của mọi người thì xẩy ra những nhức nhối của mùa hè đỏ lửa… Tôi hết chạy trốn vào đạo ca thì lại nhào ra với chiến ca, hết hạ mình xuống với vỉa hè ca, tục ca thì lại vươn lên với nữ ca, bé ca, bình ca… Tôi thèm thuồng được soạn tình ca, nhưng phải là tình ca không rầu rĩ cơ…
Nói đến chuyện yêu đương của nhạc sĩ Phạm Duy
(1921-2013) thì không biết bắt đầu và kết thúc thế nào cho đầy đủ. Tuy nhiên, có một mối tình rất mơ mộng kéo dài suốt 10
năm từ 1959 đến 1969, đã mang lại cho công chúng nhiều ca khúc hay, đặc biệt là
tuyệt phẩm “Nghìn trùng xa cách”. Trong hơn ngàn bài hát mà nhạc sĩ Phạm Duy từng công
diễn, có một ca khúc có tên gọi “Tôi đang
mơ giấc mộng dài”. Ngay khi ra mắt lần đầu tiên vào năm 1970, bản nhạc đã
được ghi rõ ràng: “Nhạc: Phạm Duy - Thơ:
Lệ Lan”. Đây là một điều lạ, bởi lẽ Phạm Duy vốn lãng đãng nên ít khi nhớ
tên tác giả lời thơ mà mình phổ nhạc. Lệ Lan là ai mà được chiếu cố như vậy?
Trên thi đàn, Lệ Lan hoàn toàn vô danh. Về khách quan,
ca khúc “Tôi đang mơ giấc mộng dài” dựa
theo bài thơ “Năn nỉ” của Lệ Lan in
trên tạp chí Bách Khoa xuất bản năm 1969. Về thực tế, bài thơ này đã được chính
tác giả trao tay cho Phạm Duy trước đó nhiều năm.
Ngày xưa Hoàng Thị đã trở thành ca khúc quen thuộc với
công chúng, nhưng ít ai tỏ tường người đẹp Hoàng Thị Ngọ từng tạo cảm hứng cho
nhà thơ Phạm Thiên Thư.
“Ngày
xưa Hoàng Thị” từ một bài thơ của Phạm Thiên Thư, đã được
nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành ca khúc nổi tiếng.Khi nhắc đến những bản tình ca mơ mộng tuổi học
trò, có lẽ nhiều người sẽ nhớ đến ca khúc “Ngày
xưa Hoàng Thị” với những câu hát “Em
tan trường về, anh theo Ngọ về/ Chân anh nặng nề, lòng anh nức nở/ Mai vào lớp
học, anh còn ngẩn ngơ ngẩn ngơ”
Chị
Nguyễn Thị Túy, nguyên mẫu của nhân vật “em” trong ca khúc “Chuyện tình buồn”
(nhạc sĩ Phạm Duy phổ thơ Phạm Văn Bình)!
Trước tiên xin được nói ngay: người thiếu nữ trong tấm
hình đăng kèm bài này, đó chính là chị Nguyễn Thị Túy, nguyên mẫu của nhân vật
“em” trong ca khúc “Chuyện tình buồn” (nhạc sĩ Phạm Duy phổ thơ Phạm Văn Bình)!
Mọi người đều quá biết “Chuyện tình buồn” là một trong
những bản nhạc tình rất hay và cực kỳ lãng mạn của nền âm nhạc miền Nam Việt
Nam trong những năm tháng chiến tranh ác liệt. Câu chuyện trong bài thơ hay bài
hát đều kể về một thanh niên có gia đình theo đạo Phật, đem lòng yêu một cô gái
rất đẹp theo đạo Công giáo. Hồi đó, những câu chuyện như thế này là không hề
thiếu, và chắc chắn là luôn gặp phải trắc trở vì bị cả hai gia đình, thậm chí cả
dòng họ ngăn cấm tới cùng!
Phạm Duy là một nhạc sĩ đại tài của nền tân nhạc Việt
Nam, với gia tài sáng tác đồ sộ, đa dạng về thể loại, phong phú về nội dung, trải
dài qua nhiều mảng nhạc khác nhau.
Có thể kể đến nhiều loại nhạc Phạm Duy sáng tác như nhạc
thiếu nhi, nhạc kháng chiến, nhạc quê hương, dân tộc, nhạc tình yêu, đôi lứa,
nhạc học trò, đạo ca, trường ca, nhi ca, tâm ca, thiền ca… Tuy nhiên, tình ca vẫn
là mảng nhạc được ưa chuộng và nhớ đến nhiều nhất. Trong sự nghiệp của mình, Phạm Duy để lại một kho tàng
khổng lồ với hơn 2000 ca khúc. Trong đó, có một mảng khá xuất sắc là nhạc phổ
thơ. Có thể nói, Phạm Duy là một thầy phù thủy xuất sắc khi
phổ nhạc vô cùng hòa quyện, tạo nên những giai điệu đầy biến ảo cho các bài thơ
có ngôn từ bay bổng như Ngày xưa một chuyện tình sầu, Trăm năm như một chiều,
Chiếc bóng bên đường, Hãy trả về em, Qua vườn ổi, Lá diêu bông… Đa số các bài thơ Phạm Duy phổ nhạc đều viết về tình
yêu đôi lứa, với âm hưởng lãng mạn.
Phạm
Duy là con bướm đa tình, khi đã 'tạm' mỏi cánh, con bướm này chọn nơi dừng
chân: lập gia đình với một người con gái tài sắc- CS Thái Hằng. Nhưng nàng lại
đang mang một nỗi buồn u uất, chưa hề tỏ bày cùng ai…
Phạm Duy và Thái Hằng
Quen biết với gia đình Thăng Long từ dạo còn tản cư ở
Chợ Đại-Cống Thần (Hà Đông, 1947), rồi cùng nhau về Liên khu VI ở Chợ Neo
(Thanh Hóa, đầu năm 1949), lúc nào Phạm Duy cũng thấy vương vất trong đôi mắt của
Thái Hằng một nỗi buồn... Thái Thanh cùng Hoài Trung (trái) và Hoài Bắc trong ban Hợp ca Thăng Long Có lẽ chính vì thế mà những “cây si” tầm cỡ như: thi
sĩ Huyền Kiêu, thi sĩ Đinh Hùng, họa sĩ Bùi Xuân Phái, nhạc sĩ Ngọc Bích (ở Chợ
Đại), thêm Đoàn Phú Tứ, Bửu Tiến, Bửu Kỉnh (ở Thanh Hóa)… cũng không lay động
được con tim của nàng. Thái Hằng rất kín tiếng, ít khi tâm sự với ai. Chỉ đến
sau này, khi giữa nàng và Phạm Duy đã trở nên thân thiết thì nàng mới thổ lộ nỗi
niềm sâu kín ấy: Vào năm 1945, Thái Hằng đính hôn với một sinh viên trường
Luật tên là Trần Văn Nhung. Nhung là một thanh niên yêu nước nhưng có khuynh hướng
thân Nhật. Vào đầu thập niên 40, cũng như rất nhiều thanh niên khác, anh tin rằng
Nhật Bản thực sự muốn giúp cho Việt Nam thoát ra khỏi ách thực dân Pháp. Cảm tình của anh đối với Nhật Bản khiến cho anh được tặng
một học bổng để đi du học nhưng anh chưa kịp đi thì xẩy ra vụ Nhật đảo chính
ngày 9/3/1945. Trước giờ đảo chính, một sĩ quan Nhật hỏi một nhóm sinh viên Hà
Nội do họ triệu tập xem có ai muốn xung phong cùng đi với lính Nhật vào hạ
thành Hà Nội? Họ sẽ được dành cho vinh dự là tự tay giật lá cờ tam tài của Pháp
xuống. Mọi người còn đang do dự thì Trần Văn Nhung và một
sinh viên đứng lên nhận lời. Hai sinh viên này đi tiên phong trong đám lính Nhật
và bị bắn chết ngay trên bờ tường thành Cửa Bắc trong phút đầu tiên của vụ đảo
chính. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, một buổi lễ truy điệu những người đã hi sinh
cho nền 'thịnh vượng chung của Đại Đông Á' được tổ chức rất long trọng tại Nhà
Hát Lớn Hà Nội. Thái Hằng đầu chít khăn trắng tới dự lễ truy điệu này. Cái chết của vị hôn phu đã ảnh hưởng rất lớn đến Thái
Hằng. Từ ngày đó trở đi, Thái Hằng đắm đuối trong nỗi niềm riêng. Trong suốt một
năm lúc chưa đi tản cư, tuần nào nàng cũng mang hoa tới đặt trên mộ Nhung và ngồi
khóc… Đi theo gia đình ra vùng kháng chiến, nàng vẫn mang theo
tấm ảnh và tập nhật ký của người đã chết, trong đó Nhung có những câu nói vừa gở
vừa thiêng như: “Nếu anh chết thì em phải
lấy chồng và cố tìm ra một người nào như anh nhé”. Khi ra sống ở
Chợ Đại và Chợ Neo, trong hai năm liền, Thái Hằng vẫn chưa nguôi được nỗi buồn.
Suốt ba năm dài, coi như để tang cho người tình, nàng đóng chặt tâm hồn, sống với
một nỗi buồn không che dấu. Một hôm, cha mẹ nàng đã tìm cách đốt tấm ảnh và tập
nhật ký của Nhung đi. Biết được tâm sự của Thái Hằng, Phạm Duy tuy thực tâm
nể phục thái độ anh hùng của Trần Văn Nhung cũng như sự chung tình của Thái Hằng
nhưng vẫn cố làm cho nàng khuây khỏa và dần dần thay thế được hình ảnh của người
hùng đã khuất trong trái tim nàng ca sĩ. Sau sáu tháng quen biết, Phạm Duy chính thức hỏi Thái
Hằng làm vợ. Ông bà Thăng Long có chút lưỡng lự nhưng lúc đó có hai người rất
uy tín là tướng Nguyễn Sơn và nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh nói giúp vào, lại nữa
con trai lớn của ông bà là Phạm Đình Viêm (Hoài Trung) cũng nhiệt tình ủng hộ
nên cuối cùng ông bà Thăng Long cũng ưng thuận. Sau khi chọn được ngày tốt, bà Thăng Long ra cái chợ
ngay trước quán phở của mình mua một nải chuối, một buồng cau, một gói trà để
tiến hành “lễ hỏi”. Phạm Duy kể lại rằng: “Bên
nhà trai không có ai ngoài tôi ra, đành phải nhờ người em của điêu khắc gia Lê
Thị Kim là Bạch Bích tới bưng hộ khay trầu. Hôm đó, từ trong Quán Thăng Long đi
ra tôi còn là một kẻ độc thân rồi tức khắc từ ngoài cửa đi vào, sau khi ra đứng
lễ ông bà ông vải xong, từ nay trở đi tôi trở thành người chồng chưa cưới của
Phạm Thị Thái Hằng. Một cái lễ hỏi nhẹ tênh, so với sự nặng nhọc và kiên trì của
sáu tháng khổ công vận động của tôi…”. Tuy nhiên vì cũng muốn tỏ ra anh hùng trong mắt hiền
thê nên Phạm Duy tình nguyện vào chiến trường Bình Trị Thiên trong 6 tháng, vừa
biểu diễn phục vụ vừa sáng tác (những ca khúc nổi tiếng Bà mẹ Gio Linh, Bao giờ lấy được đồn Tây - sau sửa lại là Quê nghèo, được Phạm Duy sáng tác trong
thời gian này)… 6 tháng sau, khi Phạm Duy từ chiền trường trở về, lễ
cưới của đôi vợ chồng quê này mới được cử hành dưới sự chủ hôn của Tướng Nguyễn
Sơn. Lễ hỏi giản dị như thế nào thì lễ cưới cũng đơn sơ như thế. Áo cưới của cô
dâu là chiếc áo dài mầu xanh thẫm mang theo từ ngày xa Hà Nội, bây giờ mới có dịp
dùng đến. Chỉ có chiếc quần vải trắng vừa mới may xong. Hằng ngày Thái Hằng đi dép Nhật hiệu 'con hổ' thì hôm nay cô dâu xỏ đôi guốc
mới toanh. Chú rể mặc bộ đồ quân phục bằng kaki Mỹ, đội mũ ca lô bằng dạ mầu
xanh, chân đi giầy cao cổ…chẳng khác chi hình ảnh cô dâu chú rể trong bài thơ Màu tím hoa sim của Hữu Loan: “Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới.
Tôi mặc đồ quân nhân. Đôi giầy đinh bết bùn đất hành quân...” Phạm Duy kể lại: “Tướng
Nguyễn Sơn, chính trị ủy viên Nguyễn Kiện, văn sĩ Nguyễn Đức Quỳnh, nhiếp ảnh
gia Nguyễn Giao (ông thân sinh của ca sĩ Thúy Nga, vợ của Hoàng Thi Thơ), kỹ sư
Nguyễn Dực con của nhà văn hào Nguyễn Văn Vĩnh và là bạn đồng học của tôi trong
trường Kỹ Nghệ Thực Hành cùng với dăm ba người nữa... đó là những vị khách quý
đã từ nơi xa hay nơi gần, leo lên xe đạp từ sáng sớm để phóng tới Chợ Neo dự lễ
cưới của chúng tôi…” Lễ cưới khởi sự lúc nào không biết. Mẹ vợ ra khấn vái
trước bàn thờ vừa mới được dựng lên. Rồi tới phiên chú rể lên gối xuống gối, cô
dâu ngồi xụp xuống đất, làm lễ gia tiên. Khấn vái ông bà ông vải xong, chúng
tôi xin ra lễ sống cha mẹ vợ theo phong tục Việt Nam, nhưng ông bố vợ xua tay: 'Thôi. Đời sống mới mà. Không phải lạy Ba Mợ
nữa.' Sau khi đã làm xong bổn phận với người chết là tổ tiên
và với người sống là cha mẹ rồi, bây giờ tới thủ tục hành chính. Nhân viên ủy
ban hành chính của xã được mời tới để làm giấy giá thú. Trước mặt mọi người, cô
dâu chú rể cúi xuống mặt bàn còn thơm mùi phở, ký giấy hợp hôn, tay cô dâu run
run. Bây giờ mới lòi ra tên cô dâu là Phạm Thị Quang Thái. Không phải chỉ có Phạm
Thị Thái…. Hai mâm cơm thịnh soạn hơn ngày thường đã được bầy ra
trên hai cái bàn ở trong quán. Gần hai chục người đã ngồi vào bàn ăn. Ông bố vợ
đứng lên mời mọi người cầm đũa, sau khi đã cám ơn quý khách. Tướng Nguyễn Sơn đứng
lên nói vài câu chúc mừng. Giản dị đến độ không có được một cái nhẫn cưới để tặng
cô dâu, nhưng tôi có thể nói ngay ra đây là kể từ hôm nay cho tới 40 năm sau,
chưa bao giờ đôi vợ chồng này to tiếng với nhau một lần. Ăn xong bữa 'tiệc' cưới, trước khi quý khách ra về,
chúng tôi ra trước cửa Quán Thăng Long đứng xếp hàng cho anh Giao chụp một bức ảnh
kỷ niệm. Riêng cô dâu và chú rể còn có thêm một bức ảnh chụp riêng, hai người nắm
tay nhau đứng ở trong vườn chuối bên cạnh quán. Bức ảnh chụp mọi người trong
đám cưới, khi chúng tôi về thành, ông bố vợ đã cắt bỏ hình tướng Nguyễn Sơn vì
sợ lính Tây khám mà thấy ảnh ông tướng Tư Lệnh thì nguy hiểm lắm… Đám cưới vừa cử hành xong thì đã thấy ông bố vợ vào
trong làng mua lại một cái ghế dài để ghép vào giường của cô dâu cho hai người
nằm, không quên nói câu nói nằm trong phong tục Việt Nam: ‘Ba giải chiếu cho các con, để vợ chồng con sinh năm đẻ mười như Ba Mợ
nghe'. Thế là từ đêm nay trở đi, tôi không phải kê hai cái bàn ăn làm nơi
ngủ nữa rồi”.
Phạm
Duy, Thái Hằng và Thái Thảo trên một sân khấu
Cưới vợ được 4 tuần thì Phạm Duy được điều về Việt Bắc.
Phạm Duy phải đưa vợ mới cưới cùng đi. Khoảng đường từ Thanh Hóa lên Việt Bắc
hơn 800 cây số phải…đi bộ, nhưng mới đi được nửa đường thì Phạm Duy phát hiện vợ
mình có thai. Lỡ rồi, đi luôn… Đúng một tháng sau, họ đặt chân lên đất Thái Nguyên.
Liên lạc viên dẫn tới Yên Giã, một khu rừng nằm gần ranh giới hai tỉnh Thái
Nguyên và Bắc Kạn. Ở chung quanh đây không có một gia đình thường dân nào cả.
Khu thung lũng rộng lớn và có núi bao quanh này là An toàn khu (ATK) của tất cả
các cán bộ làm việc trong các cơ quan khác nhau của Trung ương. Mỗi gia đình
cán bộ đều được cơ quan của mình phát cho một mảnh đất rồi có người tới phụ
giúp để dựng lên một cái nhà bằng nứa. Yên Giã là nơi dành riêng cho các gia đình văn nghệ
sĩ. Lúc này họ đều trở thành hội viên của các Hội Nhà Văn, Hội Hoạ Sĩ, Hội Nhạc
Sĩ, Hội Sân Khấu cả rồi…Vợ chồng Phạm Duy là thượng khách của Nguyễn Xuân
Khoát, Chủ Tịch Hội Nhạc Sĩ Kháng Chiến. Họ được cất cho một mái nhà tranh vách
nứa nằm không xa nhà của vợ chồng Văn Cao là mấy. Phạm Duy viết trong hồi ký: “Tưởng như là căn nhà bên suối đang nằm ở trong bài một hát bỗng nhảy
ra đây. Đây cũng là cái tổ ấm đầu tiên trong đời tôi, của một gia đình có đôi vợ
chồng son và đứa hài nhi nằm trong bụng mẹ. Nhà có tới ba phòng, phòng ngủ có
cái giường nứa, phòng bếp có cái bếp nứa, phòng tắm có tấm phên cũng bằng nứa. Thiếu
phòng vệ sinh, nhưng chúng tôi có cả một khu rừng ở đằng sau nhà rồi. Căn nhà nứa
này, tuy có phòng tắm đó nhưng có bao giờ chúng tôi chịu tắm ở trong nhà đâu?
Ai chịu khó vác nước từ suối lên đây? Bà Phạm Duy đi tắm suối là kéo bà Văn Cao
đi cùng. Đi mua thực phẩm hơi xa cho nên cứ cách dăm ba ngày là các bà rủ nhau
cùng đi chợ. Gạo
ở đây là gạo kháng chiến, khi ăn mà không nhằn miếng cơm cho kỹ là dám sứt răng
vì những hòn sạn. Cũng mua được thịt để ăn nhưng kho xong nồi thịt, chỉ cần một
đêm là thịt kho trở thành thịt đông ngay. Bởi vì ở trong vùng rừng núi này, mỗi
khi đêm xuống thì dù là mùa Hạ, trời cũng trở lạnh như trong mùa Đông…”.
Phạm
Duy, Thái Hằng và các con
Ở Yên Giã, Phạm Duy gặp lại hầu hết các bạn bè văn nghệ
cũ như vợ chồng Văn Cao, vợ chồng Văn Chung, các nhạc sĩ Lê Yên, Nguyễn Đình
Phúc, Xuân Tiên, Xuân Lôi, Lê Văn Vũ Bắc Tiến, Thế Lữ, Võ Đức Diên, Đoàn Phú Tứ,
Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu... và cả người bạn thân Hoàng Cầm.
Đặc biệt là gặp lại anh bạn cùng học trường Mỹ Thuật khi xưa: Mai Văn Hiến. Hoạ
sĩ Mai Văn Hiến rất chiều chuộng Thái Hằng, anh thường tìm hái trong rừng những
quả chua như me, sấu, là những thứ mà người đang có thai rất thèm ăn. Những ngày ở ATK đã ghi đậm dấu ấn trong hồi ức Phạm
Duy, ông viết: “Đời sống ở Yên Giã quá đẹp.
Bõ công chúng tôi đã rời bỏ một nơi 'an ninh thịnh vượng' là Thanh Hoá để lên
đây ở…” Hà Đình Nguyên Nguồn:
https://tintuc.vn/pham-duy-noi-buon-u-uan-va-dam-cuoi-cua-thai-hang-post107405
Tưởng niệm 40 năm ngày từ trần của thi sĩ Vũ Hữu Định
(3/4/21981 -3/4/2021)
Nhà
thơ Vũ Hữu Định: “May mà có em đời còn dễ thương”
Thi sĩ Vũ Hữu Định làm bài thơ “Còn Chút Gì Để Nhớ” vào năm 1970 khi bị đày lên Pleiku để làm Lao
công đào binh. Bài thơ sau đó được nhạc sĩ Phạm Duy – “ông vua” phổ nhạc của Việt
Nam đã lấy nguyên bài thơ làm ca từ không bỏ hoặc thêm bớt một từ nào cả. Bản
nhạc nhanh chóng được công chúng đón nhận:
(Gửi
cho BBC News Tiếng Việt từ Melbourne, Úc) Nhạc sĩ Phạm Duy, tên thật Phạm Duy Cẩn là nhạc sĩ, nhạc
công, ca sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam Hàng chục năm đã trôi qua nhưng nhiều lần cứ đến tháng
Tư tôi lại nghĩ về nhạc sĩ Phạm Duy và thân phận nổi trôi của cá nhân ông và
qua đó của quê hương mình.
...
Tôi không có tham vọng đóng vai trò một nhà khảo cứu phê bình có đủ phương tiện,
thời gian và không gian để viết về một trong những nhà thơ lớn nhất của nước Việt
Nam hiện đại. Tôi chỉ muốn hoá giải một nỗi buồn thương có trong tôi mỗi khi nhớ
tới Hoàng Cầm. Người bạn thi sĩ cùng tuổi với tôi, vừa bước vào đời là được
cùng tôi thoả chí tang bồng khi cùng đi vào cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp. Rồi vì phận nước long đong, với cảnh đất nước và lòng dân bị phân chia bởi
chủ nghĩa, chiến tranh và hận thù, chúng tôi mỗi người mỗi ngả. Từ đó, nhất là
sau cuộc nổi dậy và bị tiêu diệt của một phong trào đối kháng, Hoàng Cầm mất
tích, trong đời anh cũng như trong đời tôi. Suốt
30 năm trời, một tấm màn đen phủ lên cuộc đời và sự nghiệp của Hoàng Cầm, không
cứ gì ở Bắc Việt. Cho tới năm 1975, tại Nam Việt Nam, tuy không thiếu những bài
viết về các nhà thơ nổi danh của thời đại nhưng không có ai viết đầy đủ về anh.
Chỉ có Hoàng Văn Chí với cuốn sách TRĂM HOA ÐUA NỞ cho ta thấy thơ Hoàng Cầm
trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm và chỉ có Trần Tuấn Kiệt cho in lại (với
nhiều khuyết điểm) một vài bài thơ kháng chiến của thi sĩ trong một tuyển tập
thi ca. Thời
gian trôi đi, bỗng có lúc tôi khám phá ra một số bài thơ của Hoàng Cầm rồi thấy
mình nên viết ra những gì còn nhớ được nơi người bạn vãn niên này để, thêm một
lần nữa (sau Nguyễn Chí Thiện), lôi ra từ bóng tối một nhà thơ sáng láng nhất của
chúng ta... Ðó là đoạn MỞ ÐẦU của tập HOÀNG CẦM TRONG TÔI, một tiểu
luận được viết ra sau gần mười năm sống đời lưu dân -- nghĩa là vào khoảng 1984
-- nhất là sau khi đã tự coi như mất quê hương rồi bỗng nhiên lại tìm thấy quê
hương qua những bài thơ ẩn dụ của Hoàng Cầm mà vô tình tôi được đọc. Sự biên soạn
tập tiểu luận vừa kể và sự ra đời của những bản (tôi gọi là) Hoàng Cầm Ca cũng
còn do một ngẫu nhiên, hay nói cho đúng hơn, do một hữu duyên. Hữu duyên thiên
lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng.
NGẬM
NGÙI Nắng
chia nửa bãi; chiều rồi... Vườn
hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu. Sợi
buồn con nhện giăng mau; Em
ơi! hãy ngủ... anh hầu quạt đây. Lòng
anh mở với quạt này; Trăm
con chim mộng về bay đầu giường. Ngủ
đi em, mộng bình thường! Ru
em sẵn tiếng thuỳ dương mấy bờ... Cây
dài bóng xế ngẩn ngơ... -
Hồn em đã chín mấy mùa thương đau? Tay
anh em hãy tựa đầu, Cho
anh nghe nặng trái sầu rụng rơi
(Nhân 99 năm ngày sinh Phạm Duy 5-10-1921 -- 5-10-2020)
“Thơ
hay có thể bị vua bắt
Trăng
nhé nghìn đêm bạc tiếng gà”
(Trích bài thơ “LÝ BẠCH” của Trần Mạnh Hảo)
Chúng tôi (TMH) xin mượn tên cuốn sách: “Phạm Duy” còn
đó nỗi buồn” của họa sĩ, nhà văn Tạ Tỵ làm tiêu đề cho bài viết về nhạc sĩ Phạm
Duy của mình. Phạm Duy - (từng là ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng nhất của
nền tân nhạc Việt Nam, từng là giáo sư dạy trường Quốc gia âm nhạc Sài Gòn, một
nhà nghiên cứu âm nhạc xuất sắc, một nhà văn, nhà báo có phong cách riêng khi
viết báo, viết hồi ký) - kể từ bài hát đầu tiên phổ thơ Nguyễn Bính, bài “Cô
hái mơ” viết năm 1942 đến nay, đã có hàng mấy trăm bài hát (có người còn cho
ông đã viết đến con số trên dưới 1000 bài?) làm xúc động lòng người Việt Nam suốt
hơn 70 năm nay. Phạm Duy không chỉ là một hiện tượng âm nhạc vắt qua hai thế kỷ;
hơn nữa, ông còn là một hiện tượng xã hội, một hiện tượng văn hóa, một hiện tượng
lịch sử, cần phải có nhiều nhà Phạm Duy học mai sau nghiên cứu về ông.
Lưu
ý: Với những người “không quen” hoặc “không thích nghe” những câu nói tục hay
tiếng chửi thề thường diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, lời khuyên chân thành
của tôi là không nên đọc bài viết và cũng không nên nghe những bản tục ca này.
Lý do: Lời 10 bài tục ca của Phạm Duy rất… “phản cảm” và có thể gây sự khó chịu
hoặc bực mình…
Tác giả Nguyễn Ngọc
Chính
PHẠM
DUY VÀ MƯỜI BÀI TỤC CA
Nguyễn Ngọc Chính
Phạm
Duy thời trai trẻ ở chiến khu Bình Trị Thiên
Khi còn sinh thời, nhạc sĩ Phạm Duy đã có đôi lời tâm
sự về 10 bài tục ca của ông đọc trên băng cassette được phổ biến hạn chế và đến
nay gần như “thất truyền”:
“Hai
vị viết sách, viết báo về tôi là Tạ Tỵ và Georges Gauthier đều cho rằng cái
vui, cái tếu không phải là chất liệu Phạm Duy, cho nên tục ca không thành công.
Chưa kể có người chê tôi đi tới chỗ nhảm nhí trong nghệ thuật. Tôi cũng hiểu được
vì sao có những người chống đối tục ca dù họ không biết cặn kẽ nội dung của nó.
Tôi không hề tung tục ca ra quần chúng. Tôi chỉ tặng vài người bạn thân một
băng cassette ghilại
buổi hát chơi ở Vũng Tầu và còn dặn dò đừng phổ biến!”
Đám
cưới năm 1948: Phạm Duy trong bộ quân phục bên Thái Hằng
Có lẽ không nhà phê bình nào có đủ thẩm quyền hơn
chính tác giả khi nhận xét về những điểm yếu trong cuộc đời sáng tác của mình.
Trong trường hợp Phạm Duy, ông đã thẳng thắn nhìn nhận đã có nhiều người “chê” tục ca vì nó đi tới chỗ “nhảm nhí trong nghệ thuật” nhưng ông
cũng vạch ra lý do: “họ không biết cặn kẽ
nội dung của nó”.
Hoa Hồng Xanh - Blue Roses là bài thơ của Rudyard
Kipling, một văn thi sĩ người Anh.
I. Vài Hàng Tiểu Sử Rudyard Kipling
Joseph
Rudyard Kipling (sinh tại Mumbai, Ấn Độ 30 tháng 12, 1865 – qua đời 18 tháng
1, 1936)là một trong những tác giả nổi
tiếng nhất ở Vương quốc Anh, cả về văn xuôi và thơ, vào cuối thế kỷ 19 và đầu
thế kỷ 20. Rudyard Kipling đoạt giải Nobel Văn học năm 1907 - ông được trao giải
Nobel khi mới 42 tuổi – là người trẻ tuổi nhất trong lịch sử giải Nobel Văn học.
Trong bối cảnh chiến tranh lên cao điểm, ca khúc “Tưởng Như Còn
Người Yêu” do Phạm Duy phổ nhạc từ bài thơ “Thương ca 1” của Lê Thị Ý, gợi lên một trời đau thương
của người góa phụ khi chồng tử trận, gây xúc động mãnh liệt cho người nghe. Bài hát rất phổ biến ở miền Nam VN vào thập niên 1970.