BÌNH
THUẬN TRONG HÀNH TRÌNH MỞ ĐẤT
Có lẽ địa danh Bình Thuận xuất hiện sớm nhất vào năm
Đinh Sửu (1697), lúc ấy là một phủ của trấn Thuận Thành, sau khi Hiển Tông Hiếu
Minh hoàng đế sai Chưởng cơ Nguyễn Hữu Kính dẹp được nạn loạn vua Chiêm Bà
Tranh và chiếm được phần đất cuối cùng của Champa từ Phan Rang đến xứ Chân Lạp.
Thời vua Gia Long đặt dinh Bình Thuận, rồi đến Minh Mạng thứ 4 (1823) đặt lại
phủ Bình Thuận có 2 huyện An Phước và Hòa Đa. Trong quảng thời gian gần 130 năm
đó, Bình Thuận qua nhiều lần thay đổi cấp hành chính dinh, trấn, phủ bao gồm một
phần đất của Ninh Thuận, Lâm Đồng và phía nam Tây nguyên.
Trước đó, từ năm Giáp Tuất (1694) Chúa Hiển Tông đã nhận
ra rằng tuy chiếm được đất Chiêm Thành nhưng nếu đặt người Chiêm dưới quyền cai
trị của người Việt sẽ không mấy thuận lợi, trong khi lưu dân Việt đàng ngoài
chưa thể phát triển đến với vùng đất rộng lớn này. Cho nên phong Kế Bá Tử làm
Phiên vương Thuận Thành, người trong dòng tộc được làm quan, trả lại những bảo ấn,
kim khánh đã thu được, nhưng phải theo lệ cống nộp cho triều đình. Đồng thời đề
phòng nổi dậy, Chúa cho quân trấn giữ Phố Hài, Phan Rí, Phan Rang rồi đổi trấn
Thuận Thành làm phủ Bình Thuận. Tuy vậy
vùng đất Chiêm Thành từ Phan Rang trở về phía Đông thuộc quyền chúa Nguyễn
nhưng với chính sách mềm dẻo đã dành cho trấn vương Chiêm quyền hạn, chức quan
như một vùng tự trị. Năm Minh Mạng thứ 4 (1823) đổi trấn Bình Thuận thành phủ
kiêm lý huyện An Phước và bỏ đạo Phan Rang, cũng là lúc đã chấm dứt chế độ thổ quan tự trị của vương triều Chiêm Thành, ổn định
về địa giới hành chính cho đến sau này. Năm 1832, Chúa Chăm cuối cùng là Pô
Phaok The quy phục và vua Minh Mạng cho giữ lại hoàng gia và thân tộc được giao
chức quản lý vùng đất An Phước, Hòa Đa… Phủ Bình Thuận gồm một phần đất phía
tây Phan Rang (Pahn Rang/ Mang Lang), Phan Rí (Pảrik) chia làm hai huyện An Phước
và Hòa Đa, địa giới từ sông Phan Rang đến huyện Vĩnh Xương (Khánh Hòa). Sau đó
phủ Bình Thuận được đặt lại dinh Bình Thuận gồm 4 đạo Phan Rang, Phan Thiết, Phố
Hài và Ma Ly. Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), trong công cuộc cải cách hành chính,
có 12 đơn vị phía nam chuyển thành cấp Tỉnh.
Trong đó, Bình Thuận sau khi giảm bỏ cấp trấn Thuận Thành, đặt làm 2 phủ Ninh
Thuận, phủ Hàm Thuận và 4 huyện An Phước, Tuy Phong, Hòa Đa, Tuy Định và chính
thức trở thành Tỉnh. Địa giới tỉnh Bình Thuận từ Khánh Hòa đến sông Ma Bố (huyện
An Phước) và từ sông Ma Bố đến sông Duồng (huyện Tuy Phong) thuộc phủ Ninh Thuận.
Phần đất từ Duồng đến sông Phố Hài/Pajai (huyện Hòa Đa) và từ sông Phố Hài đến
biên giới Biên Hòa thuộc huyện Tuy Định (năm 1854 đổi tên Tuy Lý) thuộc phủ Hàm
Thuận. Tỉnh lỵ đặt tại Phan Lý Chàm, huyện Hòa Đa. Là bộ máy tổ chức hành chính
của tỉnh đầu tiên đặt ở đây thì không thể phù hợp nhưng cũng phải mất một thời
gian khá dài cho đến năm Thành Thái thứ 10 (1898) tỉnh lỵ mới chuyển từ Hòa Đa
Thổ huyện (Phan Rí Thành hiện nay) về làng Phú Tài - Đại Nẫm và Phan Thiết được
công nhận cấp Thị xã, tách ra từ phủ Hàm Thuận. Khi xưa, đất này thuộc vương quốc
Champa, chưa có người Việt sinh sống và người Chăm gọi là Hamu Lithit (tức xóm
ruộng bằng phẳng, gần biển). Địa danh này từ tiếng Chăm được Việt hóa và viết
theo tiếng Pháp. Với âm cuối Lithit gắn với âm Hán Việt của Mang (Phan) tách từ
2 địa danh Phan Rang (Mang Lang), Phan Rí (Mang Lí) thành Phan Thiết, để có tên
chung dãy đất nối dài xứ Tam Phan.
SỰ HÒA NHẬP CƯ DÂN BẢN ĐỊA
Tùng rừng núi Bình Thuận kéo dài đến lưu vực sông Đồng
Nai cư dân nguyên trước đó là nước Che Mạ (cách gọi cũ là Thượng, Mọi, Man),
chia nhiều nhóm Chura hay Trau cuối dãy Trường Sơn. Họ sống với tập tục chịu
nhiều ảnh hưởng văn hóa Phù Nam. Dân Che Mạ phát triển rộng phía lưu vực La Ngà
và miền cao nguyên Di Linh nằm trên phần đất giữa hai nước Chiêm Thành và Chân
Lạp. Bình Thuận vừa có bờ biển dọc dài, vừa không xa rừng, núi cao. Người Chiêm
(Chăm) sống theo vùng đồng bằng ven biển, vùng núi người Raglai, K’ho, Chu ru…
Người Chiêm tập trung thành làng nhiều nhất ở Tuy Phong, Phan Rí, Ma Lâm (Hàm
Thuận Bắc), Hiệp Nghĩa (Hàm Thuận Nam), Phò Trì (Hàm Tân) là những bộ phận cư
dân Chiêm phiêu tán trong chiến tranh thời Nguyễn và sau này. Nhưng do ảnh hưởng
cộng đồng cư dân Việt và trong hôn nhân khá phổ biến việc đàn ông Việt lấy vợ
Chăm sinh con cái nên có mối quan hệ về huyết thống gọi là Kinh Cựu (Yuôn-Chăm
tức Việt-Chăm). Về phong tục, tập quán và tín ngưỡng người Chăm dù là Chăm hồi
giáo Islam hay Chăm Bàni luôn bảo lưu giá trị văn hóa truyền thống từ bao đời.
Người Chăm không có họ và chỉ đến thời vua Lê Thánh Tông (1471) ra sắc chỉ với
người Chăm phải có một họ của người Việt để quản lý hộ tịch, làm sổ đinh điền
và trong sách Đại Việt địa dư toàn biên của Nguyễn Văn Siêu ghi rằng: “Nước Mán
này không có họ”. Năm Minh Mạng thứ 14 buộc người Chăm phải mang một họ theo tiếng
Việt: Bá, Đàng, Thiên, Lâm, Bá… Theo nhà nghiên cứu văn hóa Inrasara (Phú Trạm)
cũng cho rằng người Chăm mang các họ Ông, Trà, Ma, Chế…là họ vua, hoàng thân.
Qua khảo sát các di tích, công trình kiến trúc tháp, đền… từ thế kỷ thứ VIII, mới
thấy một bề dày lịch sử văn hóa giàu bản sắc. Người Chăm sống bằng nghề nông,
năm 1836 ở Bình Thuận có diện tích thực canh 40.264 mẫu thì của người Chăm chiếm
16.615 mẫu - theo Nghiên cứu Địa bạ Bình Thuận của Nguyễn Đình Đầu.
Đến thời Chúa Nguyễn đã ổn định được đất Chiêm Thành
thì dân tộc Chrau, Châu Ro cũng bị phân tán, hòa nhập với cộng đồng cư dân Việt
và Chăm. Người Mạ (Châu Mạ) tập trung vùng cao miền Đông Nam bộ, vùng thượng
lưu sông La Ngà có quan hệ với người K’ho từ xưa sống ở vùng giáp ranh Di Linh,
Lâm Đồng. Chúa Nguyễn có sách lược chiêu dụ với bộ lạc miền Thượng (Man) này để
ngăn ngừa cơ hội chiến tranh TrịnhNguyễn mà nổi loạn. Cộng đồng người Raglai
đông hơn, xuất phát từ phía tây Khánh Hòa phiêu dạt xuống, rải rác các vùng cao
của Bình Thuận và hình thành buôn làng ở phía bắc của tỉnh giáp với Lâm Đồng,
Tây nguyên… nên có thể coi đây là dân bản địa. Ở Bình Thuận, tộc người Raglai tuy
sống theo nhóm nhỏ “Paley” (làng), xen lẫn với các tộc người K’ho, Chu Ru,
M’nong, Rai… nhưng có mối quan hệ gần gũi với người Chăm nhiều hơn từ thời kỳ
phải lưu tán, lánh nạn do chiến tranh xung đột nội bộ Đại Việt và giúp cất giữ
bảo vật, ấn tín của hoàng tộc Champa. Trong lễ hội Katê hàng năm có tục lệ người
Raglai miền núi mang bảo vật (tượng trưng) của vua chúa Champa gửi gắm trước
đây xuống đền tháp để dâng lễ. Ngay
trong tiến trình mở đất về phía Nam của người Việt xứ Đàng Trong đã phải tiếp
biến những khác biệt của nền văn hóa các
dân tộc bản địa, vừa mang sắc thái riêng nhưng cũng vừa tạo ra một tâm lý nghi
ngại. Cho nên nhà Nguyễn nhận ra sự đa dạng trong sùng bái, bùa chú, linh thần
của người Chăm có tác động không nhỏ đối với lưu dân Việt vốn nặng với tín ngưỡng
Phật giáo nhưng chưa thể có một chính sách khả thi. Với dân tộc Chăm ở địa đầu
Bình Thuận tuy có ảnh hưởng khá lớn nhưng dần dần đã tạo được sự hòa hợp phong
phú để làm nên một bản sắc văn hóa trong đời sống xã hội cho địa phương.
CHINH PHỤC ĐẤT MỚI
Hành trình lưu dân Việt từ miền Ngoài vào phía Nam và
định cư trên đất Bình Thuận ban đầu chỉ từ những nhóm nhỏ do hành nghề trên biển
bị bão táp, ghe chìm tắp vào đất liền gặp nơi “đất lành chim đậu”, hoặc không
thể về lại bản quán nên lấy vợ, sinh con ở đây an cư lập nghiệp, hòa nhập với
dân bản địa. Một bộ phận không nhỏ là bầu đoàn của đội quân trên đường đi mở đất,
khẩn hoang về phía Nam rơi rớt nằm lại. Cũng thời kỳ này người Việt miền Trung
vì quá đói khổ, chịu đựng chính sách hà khắc từ cuộc chiến dai dẳng giữa Nguyễn
- Trịnh suốt 45 năm (1627- 1672) nên phải phiêu dạt vào Nam để tìm đất mới khai
hoang, kiếm sống. Bình Thuận nằm trên
tuyến di dân đã mở ra nhiều xóm làng từ đó, bằng đường biển và đường bộ ven bờ.
Những cửa sông lớn Phan Rí, Phố Hài, Phan Thiết, La Di… sớm trở thành những điểm
cư dân tập trung đông đảo nhất của người Việt trên đất Bình Thuận. Đến năm 1809 đoạn đường bộ ven biển gọi là
quan lộ từ Quảng Nam vào Bình Thuận và sau đó cũng theo dọc biển mở tiếp đoạn từ
Phan Thiết qua Hàm Tân, Xuyên Mộc rồi ngược lên Mô Xoài (Bà Rịa - Long Thành) đến
Châu Thới, Biên Hòa. Năm 1890 Toàn quyền Đông Dương xây dựng tuyến đường thuộc
địa số 1 (tức Quốc lộ 1A ngày nay) và mở mới đoạn đường từ Phan Thiết đến Biên
Hòa thay cho con đường quan lộ ven biển. Từ đó nhiều đợt di cư qui mô vào vùng
đất này ngày càng đông hơn. Tiếp đó, cuộc chiến gay gắt diễn ra giữa lực lượng
quân nhà Nguyễn với Tây Sơn (1773-1801) có tác động đến cư dân vùng ngoài, rồi
Pháp đánh chiếm 6 tỉnh Nam kỳ cũng tạo nên làn sóng lưu tán nhập cư ở Bình Thuận,
hình thành mảnh đất tụ nghĩa với những nét văn hóa đặc trưng vùng miền của các
dân tộc. Trong ghi chép sử liệu chỉ dựa vào nhận thức xã hội do không phân biệt
đầy đủ nên tên gọi về dân tộc ít người dẫn đến định kiến hẹp hòi như trong sách
Đại Nam nhất thống chí đề cập đến dân cư Chăm các huyện Hòa Đa, Tuy Phong gọi
là Thổ, Mán, Mường… Trong dân gian xưa thành thói quen với cách gọi khác là
Chàm, Hời (H’roi)…(1) dù họ thuộc vương quốc Chiêm Thành, Champa cũ. Các địa
danh Cà Ná, Ma Bố, La Bá, Duồng, Phan Rí, Phố Hài, Mường Mán, Ma Ly, Phò Trì… từ
bắc xuống nam của tỉnh, vẫn là âm ngữ từ gốc Chiêm Thành. Những loại nông cụ
như cày, lưỡi xới, lưỡi cày… vẫn gọi bằng tiếng Chăm (pah lingal, iku, thru).
Đó là một thực tế lịch sử. Theo sách Nghiên cứu địa bạ Triều Nguyễn, tỉnh Bình
Thuận năm 1905, có 2 phủ Hàm Thuận (4 huyện) và phủ Di Dinh / Di Linh (20 sách)
đất thượng du, với số dân 171.500 người, trong đó người Việt chiếm 67% dân số.
Điều này cho thấy quá trình di dân và dân số phát triển trong giai đoạn cả trăm
năm kể từ khi đất Chiêm Thành được sự quản lý của nhà Nguyễn đã khẳng định vai
trò của người Việt ở đây. Chặng đường “đất Chiêm, người Việt” có ý nghĩa nối
dài của lịch sử hình thành vùng đất này.
Phan Chính
…….
*
Về thời gian các sự kiện theo Niên biểu lịch sử Việt Nam và Đại Nam nhất thống
chí (tập 12-Bình Thuận)… (1) Trong sách “Có 500 năm như thế” của Hồ Trung Tú,
trg 118, cho rằng Man, Mọi (chỉ người dân tộc thiểu số) đều cùng một nghĩa,
không mang ám chỉ miệt thị…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét