“Nhà
thờ tộc Nguyễn Tường phái nhì (đường Lê Quý Đôn, cạnh di tích Khổng Miếu, TP.Hội
An) được xây dựng sau và kiến trúc cũng không thể sánh bằng nhà thờ tộc Nguyễn
Tường phái nhất (dựng năm 1806), ở xóm Dinh (8/2 đường Nguyễn Thị Minh Khai,
TP.Hội An). Nhà thờ phái nhì tuy còn lưu giữ nhiều thư tịch quý giá, gắn liền với
danh thần Nguyễn Tường Phổ cùng 3 nhà văn trong nhóm Tự Lực văn đoàn (Nhất
Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng), nhưng không phải là điểm tham quan chính thức như
nhà thờ Nguyễn Tường phái nhất hiện nay”. Nghe nói như vậy, nhưng tôi vẫn bước
qua cánh cổng nhà thờ trước mắt rảo nhìn toàn cảnh.
Trở
lại xóm Dinh
Tác
giả bên tủ sách của nhóm Tự Lực văn đoàn
được lưu giữ tại từ đường Nguyễn Tường phái nhất.
được lưu giữ tại từ đường Nguyễn Tường phái nhất.
TÌM
LẠI NƠI PHÁT TÍCH NHÓM TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
Trần Trung Sáng
Chủ nhà đi vắng, hoặc sinh hoạt gia đình ở khuất phía
sau, nên không gian khu nhà vườn trông thật trầm lắng, u tịch, gần giống cái cảm
giác nhà văn Nguyễn Văn Xuân đã từng miêu tả khi ông đến nơi này vào một ngày đầu
xuân 47 năm về trước: “...con đường màu đỏ
nhạt, đọng nước với những khu vườn vẫn gợi cho tôi nhớ ở đâu đây, trong các
truyện của Thạch Lam, một cảm giác lâng lâng, dịu dàng theo bóng nắng qua các
chòm lá cây, rải trên mặt đường…”.
Cũng trong bài viết này, Nguyễn Văn Xuân có đoạn: “Ông Cụ Cố ông Nhất Linh xưa kia được phong tiết Việt (?), tới đâu đem
cắm là có quyền nhận lãnh năm mẫu đất ở vùng đó”. Sự đó có đúng không? Nếu
như thế thì cả khu vực mênh mông từ nhà thờ lớn (ở xóm Dinh) ra tới đây đều nằm
trong vùng sở hữu của họ Nguyễn Tường cả hay sao? Chuyện đó, có cơ hội, tôi sẽ
hỏi lại một nhân vật lão thành trong gia đình Nguyễn Tường” (“Năm mới đi viếng nhà thờ Nhất-Linh Nguyễn-Tường-Tam”
của nhà văn Nguyễn Văn Xuân, Bách Khoa, 1973).
Quay về nhà thờ Nguyễn Tường phái 1 ở xóm Dinh, trong
ký ức tuổi thơ, chúng tôi cũng chỉ biết mơ hồ ngôi nhà cổ kính ấy là nơi phát
tích của những nhà văn chủ chốt của Tự Lực văn đoàn, chứ không có dịp tìm hiểu
nhiều, vì thời điểm ấy, chiến tranh loạn lạc, các di tích văn hóa du lịch chưa
được quan tâm…
Dư Mân, bạn thân của tôi, người từ nhỏ lớn lên nơi này
nói với tôi: Hồi nhỏ, mình cũng chỉ nghe người lớn kể lại, đất của xóm Dinh là
của một đại thần triều Nguyễn, sau này loạn lạc dân chúng đến ở kín dần, chỉ
còn lại ngôi từ đường và vết tích cổng ngõ ở lối vào đầu đường. Hồi đó, thỉnh
thoảng nhìn thấy cảnh sát, quân cảnh vào đó tảo thanh, tức là ngày đó, tướng
Ngô Quang Trưởng về, ông có thể đi 2 ngõ (Duy
Tân hoặc Phan Châu Trinh) vào. Bởi vợ ông Trưởng là bà Nguyễn Tường Nhung (con gái của nhà văn Thạch Lam). Nhà văn
Hoàng Đạo cũng có một người con gái nữa (ca
sĩ Từ Dung hát nhạc Từ Công Phụng), nhưng bà này ít người biết như bà
Nhung. Các nhà văn Duy Lam, Thế Uyên khá tiếng tăm ở miền Nam (mẹ là bà Nguyễn
Thị Thế - em ruột nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, và là chị nhà văn Thạch Lam…)
ngày trước cũng có lần ghé đến xóm Dinh. Tuy nhiên, ấn tượng về nhà thờ Nguyễn
Tường này, là nơi rất gần gũi, hiếu khách, những người lớn tuổi trong xóm vào
ra rất tự nhiên, để xúm tụm trà lá, chơi bài tứ sắc…
Có một sự kiện đáng nhớ, khiến người ta nghĩ đất này rất
linh thiêng: hồi đó, đời sống còn khó, cả xóm chỉ có 3 cái ti vi, thì nơi đây
có 1 ti vi trắng đen (của ông Nguyễn Tường
Cự, nay con trai là Nguyễn Tường Hưng thường trông coi nhà thờ). Đang xem
ti vi thì có 1 trái can-non (105) bắn lạc lọt ngay vào giữa đám đông đang tập
trung. Nó xuyên qua tường mấy vòng, rồi nằm lại lăn lên chiếc giường, không nổ.
Sau đó, lính pháo binh đến kiểm tra đem đi, chỉ nghe nói là của Đại Hàn bắn ẩu
lạc đến (người dân cho rằng của pháo binh
Việt Nam Cộng Hòa bắn lạc, vì có lẽ đạn được bắn qua bên kia sông các vùng Duy
Xuyên, Cẩm Kim...). Câu chuyện này người dân rất nhớ, và tin nhà từ đường
này rất linh thiêng, có ông bà phù hộ.
Một việc khác, là vào trận lụt năm Thìn (1964), trận lụt
lớn nhất xưa nay, ở xóm Dinh người dân tập trung hết gần 300 người về nhà thờ
này, nhưng nước dâng càng lúc càng lớn. Nhà thờ cũng bị ngập gần 2 mét. Bí quá, người ta phải tập trung các liễn trướng
ở nhà thờ kê lên để tìm cách trèo lên những mái nhà lân cận, để thoát đến những
nhà gần Chùa Cầu, khiến các liễn bị gãy, hư hại…
Hồi xưa, từ đường chỉ là nơi thờ tự. Bây giờ trở thành
điểm tham quan, được Nhà nước và gia tộc chăm sóc đàng hoàng, trang trọng hơn
nhiều. Quanh khu vực Chùa Cầu, khách du lịch khá tấp nập, nhưng riêng điểm nhà
thờ Nguyễn Tường hầu như vẫn thưa vắng. Chính giữa nhà thờ, thờ di ảnh và bài vị
cụ Nguyễn Tường Vân, quanh phía các bờ tường trưng bày các tủ sách cùng hình ảnh
khá đầy đủ của nhóm Tự Lực văn đoàn. Năm 2001, các con của Nhất Linh cũng đã
đưa hài cốt ông và vợ ông (bà Phạm Thị
Nguyên) về chôn tại Nghĩa trang Nhân dân thành phố Hội An. Tiếp tôi, ngoài
cô gái nhân viên lễ tân của ngành du lịch, còn có anh Nguyễn Tường Quý, hậu duệ
của dòng tộc, nhưng chỉ thăm hỏi nhau về công việc, đời sống, bởi tôi vốn là
người quen cũ. Đáng vui mừng, phần lớn anh em họ hàng những người thuộc gia tộc
Nguyễn Tường giờ đã khá hơn xưa nhiều…
Lặng
lẽ nơi tiền nhân yên nghỉ
Thực ra, trước khi trở lại xóm Dinh, tôi có chuyến viếng
thăm các ngôi mộ của những vị tiền hiền, từ xa xưa đã dừng chân và gầy dựng nên
tộc họ Nguyễn Tường danh tiếng tại quê hương xứ Quảng.
Khu
mộ Trung từ hầu Nguyễn Văn Huấn.
Theo câu chuyện gần như là giai thoại dân gian độc đáo
và được phổ biến trong nhiều tài liệu về tộc họ Nguyễn Tường: vốn là người có mối
quan hệ gắn bó khăng khít, được vua Gia Long trọng dụng, tin tưởng, nên một lần
nhân ngang qua núi Phước Tường, vua nghe tên núi ngọn núi ở Hòa Vang (nay thuộc
TP.Đà Nẵng) có chữ “Phước” là chữ
trong tên mình (vua Gia Long tên thật là Nguyễn Phước Ánh), vua liền ban chữ
còn lại cho Nguyễn Tường Vân. Kể từ đó, hậu duệ của cụ Vân đều đổi tên có chữ
“Tường”, định cư ở Quảng Nam, tạo nên nhánh Nguyễn Tường tồn tại đến ngày
nay... Năm Minh Mạng thứ ba (1822), ông được phong chức Binh Bộ Thượng Thư. Khi
mất, thi hài cụ Nguyễn Tường Vân được đưa từ kinh đô Huế về an táng tại làng La
Vân, tổng Quảng Hòa, phủ Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
Tuy nhiên, trên suốt chặng đường về làng La Vân (nay thuộc thôn Xuân Tây, xã Đại Tân, Đại Lộc)
tìm nơi cụ Vân yên nghỉ hầu như không một người dân nào tại địa phương biết
rõ. Bởi, lăng mộ cụ Nguyễn nằm liền kề một khu vườn nhà dân, chìm khuất trong
những bụi cây, lau cỏ um tùm, nếu không có sự hướng dẫn của người nhà gia tộc
Nguyễn Tường thật khó mà biết được. Nơi đây, có tên gọi Gò Lăng, có lẽ xa xưa
là khu mộ bề thế (ngoài mộ cụ Vân, còn có mộ một người em gái của cụ). Một tấm
bảng gắn trên bờ tường phía trước lăng: “Hoàng
Việt quốc táng/ Lăng Ông/ Bắc thành Phó Tổng trấn - Binh Bộ Thượng thư/ Nhuận
Trạch hầu/ Xây dựng: 1820 - 1821/ Trùng tu: 1995”. Như vậy, triều đình đã
trực tiếp tổ chức an táng một vị đại thần có công với nước tại nơi đây theo
nghi lễ trọng thể của hoàng triều.
Một điều khá ngạc nhiên hơn nữa, trên đường trở lại Hội
An, không xa lắm khu mộ cụ Vân, tại làng La Tháp, xã Duy Hòa, Duy Xuyên,
còn có khu mộ Nguyễn Văn Huấn (và cụ bà
Trần Thị Dung), thân phụ của cụ Nguyễn Tường Vân. Khu mộ này được gia tộc
Nguyễn Tường cải táng từ hơn 10 năm trước, có bình phong chạm khắc khá công
phu, bề thế. Trong gia phả dòng họ Nguyễn Tường lưu lại cho biết, cụ
là người đời thứ năm của dòng họ Nguyễn Tường (vẫn còn chữ “Văn”, chưa xuất hiện chữ “Tường”). Tuy nhiên,
những thông tin về cụ Huấn rất ít ỏi. Chúng tôi hỵ vọng một dịp không xa, các
nhà nghiên cứu sẽ quan tâm chú ý tìm hiểu mở rộng hơn. Bởi, trong việc nghiên cứu
văn học đòi hỏi không chỉ phải biết về văn phẩm mà còn cả con người, thân tộc,
dòng họ, đất đai phát tích...
Trần Trung Sáng
Nguồn:
http://baoquangnam.vn/van-hoa-van-nghe/tim-lai-noi-phat-tich-nhom-tu-luc-van-doan-85469.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét