Nguồn:
https://www.nguoicham.com/blog/1920/ng%C6%B0%E1%BB%9Di-ch%C3%A0m-trong-m%E1%BA%AFt-t%C3%B4i/
https://www.nguoicham.com/blog/1920/ng%C6%B0%E1%BB%9Di-ch%C3%A0m-trong-m%E1%BA%AFt-t%C3%B4i/
Tác
giả Nguyễn Ngọc Chính
NGƯỜI
CHÀM TRONG MẮT TÔI
Nguyễn Ngọc Chính
Một
ngày biếc thị thành ta rời bỏ
Quay
về xem non nước giống dân Chàm
(Chế Lan
Viên)
Ngoài tên gọi “Chàm”
ta còn dùng các danh xưng như “Chăm”, “Hời”,
“Chiêm Thành”… để chỉ một dân tộc đã từng có một quốc gia độc lập, hùng mạnh
trong lịch sử, có nền văn hóa phát triển và là hậu duệ của các cư dân nền văn
hóa Sa Huỳnh thời kì đồ sắt.
Vấn đề
đặt ra là giữa “Chàm” và “Chăm” thuật ngữ nào đúng? Thật ra thì từ
năm 1979 người miền Nam mới thấy xuất hiện chữ “Chăm” từ chính quyền mới sau 30/4/1975. Trước đó, từ miền Trung trở
vào Nam, chữ “Chàm” đã từng xuất hiện
trong các địa danh, tên gọi cũng như danh từ riêng như Tháp Chàm, Cù Lao Chàm,
giếng Chàm, vàng Chàm…
Để chỉ
người Chàm, người Việt tại miền Nam còn dùng những tên gọi như “Hời”, “Chiêm”, “Người đàng thổ” (khác với
Người đàng quê là người Việt)… Theo một giải thích thì những chữ đó được dùng một
cách “miệt thị” nhưng tôi thiết nghĩ
đó là một nhận xét sai lệch, suy diễn bất hợp lý.
Trước
năm 1975 đã có những công trình học thuật như Từ điển Chàm – Việt – Pháp (của
Cham Dohamide và Dorohiêm), Nguyễn Khắc Ngữ nghiên cứu về dân tộc học qua tác
phẩm “Mẫu hệ Chàm” hoặc học giả Thiên
Sanh Cảnh có một loạt bài về “Đám ma
Chàm”… Rõ ràng là chữ Chàm ở đây không thể nào được dùng một cách “miệt thị” trong nghiên cứu.
Lại nữa,
một số tác giả người gốc Chàm đã dùng chữ Chàm hay Chiêm trong bút hiệu của
mình như Khaly Chàm, Chiêm Nhân… Không lý nào các tác giả đó lại tự miệt thị
mình! Nhưng một khi nhận xét về sự “miệt
thị” này xuất phát từ những người “có
quyền” thì nó trở thành một quyết định và ngành văn hóa chỉ biết gọi là
Chăm thay vì Chàm như lúc trước.
Trong
bài viết “Tiếng Chăm của bạn” trên
Tuyển tập Tagalau [1], Inrasara cho rằng: “Dù
sao, quy định của Nhà nước vẫn phải được tuân thủ. Tuân thủ, nhưng nếu có ai
dùng từ ‘Chàm’ trong bài viết, nhất là khi có người viết đúng các tên gọi cũ
như Trung tâm Văn hóa Chàm, Ma Lâm Chàm chẳng hạn, ta phải chấp nhận và không
biên tập. Bởi sự thể không có gì sai hay miệt thị người Chàm cả”.
Tagalau 12:
Tuyển tập Sáng tác – Sưu tầm – Nghiên cứu văn hóa Chàm
Khi
còn nhỏ, người Chàm trong mắt tôi là những ông “Hời” ngồi bán thuốc dạo bên cạnh những chiếc giỏ đặc biệt… kiểu
Chàm. Họ là những người có vẻ “thần bí”
với những câu tiếng Việt lơ lớ, một cách rao hàng vừa tức cười nhưng cũng không
kém phần… đe dọa: “Này, ngồi xuống đây
tôi coi bệnh cho, mặt của anh có bệnh rồi…”. Tôi sợ lắm nên không trả lời,
vội bước đi mà không dám ngoảnh đầu trở lại.
Lớn
lên khi tìm hiểu thêm, người Chàm ở Ninh Thuận lại cùng quê hương với Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu! Thêm một phát hiện khiến nhiều người phải ngạc nhiên, trong
đó có tôi, về mối tương quan giữ chiếc áo dài của người Chàm và người Việt.
Các
nhà nghiên cứu cho thấy chiếc áo dài Việt Nam là sự tổng hợp từ chiếc áo dài của
người Chàm và chiếc “xường xám” của
Thượng Hải. Theo Bùi Minh Đức trong Từ điển tiếng Huế, NXB Văn Học, 2009:
“Chiếc áo dài của đàn bà Việt Nam khởi phát
từ thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát (cuối thế kỷ XVIII) với nền tảng là chiếc áo dài
phụ nữ Chàm, kết hợp với chiếc áo tứ thân ở Bắc… Áo dài hai vạt của đàn bà Huế
có được là do ảnh hưởng Chàm…”
Lê
Quý Đôn viết:
“Chúa Nguyễn Phúc Khoát hùng cứ ở xứ Đàng
Trong, sau khi chiếm trọn nước Chiêm Thành, mở mang bờ cõi về phương Nam… Để chứng
tỏ tinh thần độc lập, Chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát đã chú trọng đến vấn đề cải
cách xã hội, phong tục mà điều quan trọng là cải cách về y phục…”
Lần
tìm trong “Đại Nam thực lục tiền biên”
ta bắt gặp đoạn văn sau đây: “Chúa Nguyễn
Phúc Khoát xưng vương, ông đã triệu tập quần thần tìm phương thức xưng vương và
dựng một tân đô. Ông đã thay đổi lễ nhạc, văn hóa và trang phục.
Để thay đổi, phụ nữ miền Bắc mặc
váy, phụ nữ miền Nam phải mặc quần có đáy (hai ống) giống đàn ông. Võ Vương đã
gây ra một cuộc khủng hoảng về trang phục. Phụ nữ đã phản đối kịch liệt.
Về sau Võ Vương không ưng ý với
trang phục đó, Ngài giao cho triều thần nghiên cứu, tham khảo chiếc áo dài của
người Chàm (giống hệt áo dài hiện nay nhưng không xẻ nách), và áo dài của phụ nữ
Thượng Hải (xẻ đến đầu gối) để chế ra áo dài của phụ nữ miền Nam”.
Do
đó, những chiếc áo dài đầu tiên của người Việt giống như áo dài người Chàm và
có xẻ tà. Vậy là chiếc áo dài Việt Nam ngày nay có đủ hai yếu tố văn hóa phương
Bắc và phương Nam.
Chiếc
áo dài của người Chàm
Nói đến
người Chàm là phải nói đến Chế Lan Viên [2], một hiện tượng thơ văn Việt Nam
nhưng lại đậm nét Chàm với tập thơ Điêu tàn được xuất bản năm 1937. Bút hiệu Chế
Lan Viên khiến người đọc thơ của ông liên tưởng đến Chế Bồng Nga, tên hiệu của vị
vua thứ 3 thuộc vương triều thứ 12 (tức là vị vua đời thứ 39) của Chiêm Thành.
Trong
thời kỳ Chế Bồng Nga cầm quyền, đất nước Chiêm Thành rất hùng mạnh, từng đem
quân nhiều lần xâm phạm Đại Việt của nhà Trần. Ông hy sinh năm 1390 khi tấn công
Thăng Long lần thứ 4.
Điểm
đặc biệt ở chỗ Chế Lan Viên lại là một nhà thơ mang dòng họ Việt, Phan Ngọc
Hoan, nhưng đã mượn hình ảnh của người Chàm để thể hiện một trường phái thơ mà
ông gọi là Trường Thơ Loạn trong tập thơ Điêu tàn. Đặc biệt hơn nữa, khi xuất bản
Điêu tàn, Chế Lan Viên chỉ mới 17 tuổi!
“Ta
hãy nghe, trong lòng bao đỉnh Tháp
Tiếng
thở than, lời oán trách cơ trời
Ta
hãy nghe, trong gạch Chàm rơi lác đác
Tiếng
máu Chàm ri rỉ chảy không thôi”
(Chế Lan Viên – “Bóng tối”
trong tập thơ Điêu tàn)
“Bên
cửa Tháp ngóng trông người Chiêm Nữ
Ta
vẩn vơ nhìn không khí bâng khuâng”
(Chế Lan Viên, “Đợi người
Chiêm nữ” trong tập thơ Điêu tàn)
“Chiêm
nương ơi, cười lên đi, em hỡi!
Cho
lòng anh quên một phút buồn lo!
Nhìn
chi em chân trời xa vòi vọi
Nhớ
chi em sầu hận nước Chàm ta?”
(Chế Lan Viên, “Đêm tàn”
trong tập thơ Điêu tàn)
“Nước
non Chàm chẳng bao giờ tiêu diệt
Tháng
ngày qua vẫn sống với đêm mờ”
(Chế Lan Viên – “Bóng tối”
trong tập thơ Điêu tàn)
“Tháng
ngày qua, gạch Chàm đua nhau rụng
Tháp
Chàm đua nhau đổ dưới trăng mờ!
…
Tạo
hóa hỡi! Hãy trả tôi về Chiêm quốc!
Hãy
đem tôi xa lánh cõi trần gian!”
(Chế Lan Viên, “Những sợi
tơ lòng” trong tập thơ Điêu tàn)
Chế Lan Viên (1920 – 1989)
Thành
Đồ Bàn là tên kinh đô của Chàm trong thời kỳ có quốc hiệu là Chiêm Thành. Thành
Đồ Bàn, hay Vijaya, còn gọi là Thành cổ Chà Bàn hoặc thành Hoàng Đế, nay thuộc
địa phận xã Nhơn Hậu, Thị xã An Nhơn và cách thành phố Qui Nhơn (tỉnh Bình Định)
khoảng hơn 20km.
Trong
lãnh vực âm nhạc, nhạc sĩ Xuân Tiên đã để lại cho hậu thế một tác phẩm bất hủ
mang tên Hận Đồ Bàn với những lời thống thiết của người dân Chàm:
“Rừng
hoang vu, vùi lấp chôn bao uất căm hận thù
Ngàn
gió ru, muôn tiếng vang trong tối tăm mịt mù
Vạc
kêu sương, buồn nhắc đây bao lúc xưa quật cường
Đèn
đóm vương, như bóng ai trong lúc đêm trường về…
Trong
kho tàng âm nhạc Việt Nam trước năm 1975 có rất ít những bản nhạc mang tính
cách lịch sử của một dân tộc “vong quốc” với những ca từ diễn tả tỉ mỷ đến từng
chi tiết như một bài thơ:
“Rừng
rậm cô tình, đèo cao thác sâu, đồi hoang suối reo hoang vắng cheo leo
Ngàn
muôn tiếng âm, tháng năm buồn ngân, âm thầm hòa bài hận vong quốc ca
Người
xưa đâu, mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu
Lầu
tháp đâu, nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu…”
“Về
kinh đô, ngàn thớt voi uy hiếp quân giặc thù
Triệu
sóng xô, muôn lớp quân Chiêm tiến như tràn bờ
Tiệc
liên hoan, nhạc tấu vang trên xứ thiêng Đồ Bàn
Dạ
yến ban, cung nữ dâng lên khúc ca về Chàm
“Một
thời oanh liệt người dân nước Chiêm lừng ghi chiến công vang khắp non sông
Mộng
kia dẫu tan cuốn theo thời gian nhưng hồn ngàn đời còn theo nước non
Người
xưa đâu, mộ đắp cao nay đã sâu thành hào
Lầu
các đâu, nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu…”
Kiến
trúc và điêu khắc ở thân tháp Po Klaung Garai, thế kỷ 13
Không
một ca sĩ nào hát Hận Đồ Bàn “có hồn”
bằng Chế Linh [3]. Lý do cũng dễ hiểu vì anh mang tâm sự của một người Chàm với
tên thật là Chà Len (Jamlen) và tên Việt là Lưu Văn Liên. Anh ra đời năm 1942 tại
làng Hamu Tanran thuộc Phan Rang, nay là tỉnh Ninh Thuận.
Người ta biết nhiều đến Chế Linh qua
dòng nhạc ca tụng những người lính trong quân lực VNCH mặc dù anh chẳng đi lính
ngày nào vì thuộc dạng “miễn dịch”
dành cho “dân tộc thiểu số”. Về dòng
nhạc này, có người khó tính lại bảo Chế Linh thuộc thành phần… “lính chê”.
Người
thương thì nói rõ ràng là anh bị “lính
chê” nên mới được “miễn dịch”, một
số khác, trong đó có cả những người đang mặc áo lính, lại không ưa những ca từ
anh ca tụng họ. Họ bảo những bài hát đó được trình bày theo phong cách… “sến”.
Nhưng
với Hận Đồ Bàn, mọi người đều có một nhận xét chung: bài hát đã đưa tên tuổi Chế
Linh thâm nhập vào làng ca nhạc Việt Nam với tâm trạng của một người Chàm “vong quốc”. Chỉ tiếc một điều, những
bài hát có tầm vóc như Hận Đồ Bàn rất hiếm trong nền ca nhạc nên Chế Linh phải
bước sang một dòng nhạc gây nhiều tranh cãi [4].
Người
ca sĩ gốc Chàm, được gọi là “tài hoa”
cũng có một đời tư thật… “hào hoa”:
Chế Linh nổi tiếng là người có nhiều vợ con, tính cho đến năm 2007, anh đã có 4
vợ và 14 đứa con. Ta khám phá được nhiều điều về Chế Linh qua bài viết của Jaya
Bahasa, “Mừng sinh nhật lần thứ 57 của chị
Nguyễn Thị Thúy Hằng” trên trang web Inrasara [5].
Vào
giữa thập niên 1970 Chế Linh kết hôn với cô Nguyễn Thị Thúy Hằng (sinh ngày
1/12/1953, mất ngày 26/4/1974). Cuộc hôn nhân giữa một ca sĩ người gốc Chàm với
một cô gái người Việt đã khiến giới báo chí Sài Gòn tốn khá nhiều giấy mực.
Jaya
Bahasa viết:
“Như một định mệnh hai dân tộc, hạnh phúc
này nhanh chóng đổ vỡ bởi những mù khơi mà không ai có thể biết được. Vì muốn
minh chứng cho tình yêu của mình được sống mãi, chị Thuý Hằng quyết định quyên
sinh bằng một liều thuốc ngủ mà luyến tiếc để lại hai đứa con trai thơ dại.
Cái chết của Thuý Hằng đến quá đột
ngột và bất ngờ, một lần nữa, cánh báo chí và giới nghệ sĩ Sài Gòn thêm bàn tán
rôm rả. Nhưng không người nào biết được căn nguyên. Bởi chị không một lời nào
trăn trối ngoài ba lá thư để lại cho gia đình.
Lá thư thứ nhất viết cho người mẹ
mà chị gọi bằng Mợ, xin tha thứ vì những lỗi lầm này và mong mợ hãy yêu thương
đứa con của chị để được thấy chị qua hình ảnh đứa con. Lá thư thứ hai viết
riêng cho hai đứa con yêu quý mà chị đặt tên là Sơn và Ca, một loài chim có giọng
hót tuyệt vời. Lá thư thứ ba viết riêng cho ca sĩ Chế Linh, vài dòng ngắn ngủi
với sự muộn màng và chỉ xin Chế Linh cho một nắm đất đắp lên mộ”.
Thúy
Hằng và Chế Linh
(Ảnh
trên trang web Inrasara)
Chuyện
tình Chế Linh – Thúy Hằng với đoạn kết đầy nước mắt khiến người ta liên tưởng đến
một chuyện tình vương giả trong lịch sử Việt-Chàm. Huyền Trân là một công chúa
đời nhà Trần, con gái của vua Trần Nhân Tông. Năm 1306, Huyền Trân được gả cho
vua Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô và Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa
Thiên đến phía bắc Quảng Trị ngày nay).
Một
năm sau đó, khi hoàng hậu người Đại Việt vừa sinh xong hoàng tử Chế Đa Đa, thì
tháng 5/1307, quốc vương Chế Mân băng hà. Theo tục lệ nước Chiêm, khi vua chết
hoàng hậu phải lên giàn hỏa để tuẫn tang. Vua Trần Anh Tông biết tin, sai Trần
Khắc Chung vờ sang viếng tang, tìm cách cứu Huyền Trân.
Trần
Khắc Chung bày kế thành công, cứu được Huyền Trân đưa xuống thuyền về Đại Việt
bằng đường biển. Cuộc hải hành này kéo dài tới một năm (?) và theo “Đại Việt Sử ký Toàn thư” thì Trần Khắc
Chung đã tư thông với công chúa.
Theo
di mệnh của Thượng hoàng Nhân Tông, công chúa đầu gia Phật giáo ở núi Trâu Sơn
(nay thuộc Bắc Ninh) vào năm 1309, dưới sự ấn chứng của quốc sư Bảo Phát. Công
chúa thọ Bồ tát giới và được ban pháp danh Hương Tràng.
Trong dân gian, có lẽ vì thời đó người Việt coi người Chàm là dân tộc thấp
kém, nên đã có câu:
Tiếc
thay cây quế giữa rừng
Để
cho thằng Mán thằng Mường nó
Đền thờ Huyền Trân Công chúa
Nói
đến lãnh vực âm nhạc của người Chàm như trường hợp của ca sĩ Chế Linh tôi lại
nhớ đến nhạc sĩ Từ Công Phụng, vốn là bạn học năm Đệ Nhất tại trường Trần Hưng
Đạo Đà Lạt. Chúng tôi chỉ quen nhau trong một niên học nhưng có nhiều chuyện để
nhớ khi tuổi tác ngày một cao.
Từ
Công Phụng ngày đó là một học sinh từ Ninh Thuận lên Đà Lạt học năm cuối trung
học. Có lẽ anh là gốc người Chàm nên hình như luôn có một khoảng cách vô hình với
đám học sinh chúng tôi. Anh “góp tiếng”
tham gia ban nhạc nhà trường bằng giọng hát và chúng tôi rất ngạc nhiên khi
nghe một giọng trầm, buồn và còn đặc biệt hơn nữa chỉ hát những bài “lạ”…
Đó
là hai bài “Bây giờ tháng mấy” và “Mùa thu mây ngàn” do chính anh sáng
tác. Thật không ngờ, khi mới 16 tuổi anh đã tự học về âm nhạc qua một cuốn sách
của Robert de Kers, viết bằng tiếng Pháp, với tựa đề “Harmonie et Orchestration”. Đến năm 17 tuổi anh đã có nhạc phẩm đầu
tay “Bây giờ tháng mấy”…
Hồi
đó đang có cuộc thi tài giữa “trường Ta”
là Trần Hưng Đạo và “trường Tây” của
các sư huynh dòng La San là trường College d’Adran trên sân khấu thành phố Đà Lạt.
Vì là trường Tây nên Adran chơi nhạc Beatles, đàn cũng là kiểu Beatles còn Trần
Hưng Đạo chúng tôi khiêm tốn hơn, chơi đàn Fender theo các bản hòa tấu của The
Shadows.
Có
thêm Từ Công Phụng “chuyên trị” nhạc
Việt thể loại “tình cảm” trở thành… “hoa thơm cỏ lạ” trong chương trình văn
nghệ. Thoạt đầu Từ Công Phụng “khớp”
không dám lên sân khấu nhưng anh em trong ban nhạc cứ khen những bài “tự biên, tự diễn” của Phụng và bảo đảm
là sẽ nổi bật trong đêm văn nghệ.
Từ Công
Phụng bỗng trở thành một hiện tượng tại Đà Lạt. Khán giả hoan nghênh nhiệt liệt
đến độ Đài phát thanh Đà Lạt mời anh ghi âm để phổ biến qua làn sóng điện, tên
tuổi của Từ Công Phụng được người Đà Lạt biết đến cùng với Lê Uyên Phương trong
ban nhạc Ngàn Thông trên Đài phát thanh.
Cuối
năm Đệ Nhất ban nhạc của chúng tôi tản mát mỗi người một phương. Họ Từ về Sài
Gòn và ngay sau đó nổi lên như một nhạc sĩ ăn khách cùng thời với Vũ Thành An,
Ngô Thụy Miên, Trịnh Công Sơn và Lê Uyên Phương.
Sau 30/4/1975, các sáng tác của Từ Công
Phụng bị cấm lưu hành tại Việt Nam và mãi cho đến năm 2003 mới được… “cởi trói”. Anh rời Việt Nam năm 1980 và
định cư tại Portland, Oregon. Năm 1998, anh trở về thăm quê hương Ninh Thuận và
năm 2008, anh trở lại với chương trình “45
năm tình ca Từ Công Phụng” tại một phòng trà có tiếng ở Sài Gòn.
Nhạc
sĩ kiêm ca sĩ Từ Công Phụng đã 2 lần vượt qua căn bệnh ung thư gan và ung thư
túi mật nhưng vẫn mong đủ sức khỏe để sáng tác trong những ngày cuối đời. Với
tình bạn học của buổi thiếu thời tôi chỉ mong anh sẽ sống mãi với chúng ta,
chuyện sáng tác chỉ là vấn đề phụ vì những tác phẩm đã ra đời của anh đã là chứng
nhân cho một nhạc sĩ tài hoa người Chàm.
Nhạc sĩ Từ
Công Phụng
Hồi
còn đi học tại Ban Mê Thuột, tôi có một vị giáo sư người gốc Chàm. Thầy Nguyễn
Văn Tỷ, quê quán tại Ninh Chữ, một bãi biển thuộc thôn Bình Sơn, thị trấn Khánh
Hải, tỉnh Ninh Thuận.
Tôi
cùng thầy Bùi Dương Chi đã dẫn đoàn sinh viên Mỹ đến bãi biển Ninh Chữ được coi
là một trong những bãi biển đẹp nhất Việt Nam. Kết hợp với địa danh Bình Sơn,
Ninh Chữ đã trở thành cụm du lịch Bình Sơn - Ninh Chữ đem lại diện mạo, thương
hiệu và thu nhập cho tỉnh Ninh Thuận.
Thầy
Nguyễn Văn Tỷ đã về hưu và sinh sống tại Ninh Chữ. Ông trở thành một “nhân sĩ” trong làng và vẫn tiếp tục
nghiên cứu văn hóa Chàm để truyền bá lại cho lớp trẻ người Chàm. Ông cũng là một
cộng tác viên kỳ cựu của Tuyển tập Tagalau như đã nói ở trên.
Tháng
10/2009 ông đến California để tham dự lễ Katê của cộng đồng người Việt gốc Chàm
tại đây. Ông đã được mời phát biểu cảm tưởng tại buổi lễ. Theo ông, dân tộc
Chàm muốn sống với nhau tốt, muốn tồn tại tốt cần thể hiện 3 yếu tố: Đoàn kết,
Bảo tồn và Phát triển.
Đối
với người Chàm, đoàn kết được thì sẽ được tất cả, và không đoàn kết thì sẽ mất
tất cả. Điều này mang ý nghĩa sau khi bị “vong
quốc” sẽ lại phải “vong thân”.
Người Chàm cần bảo tồn ngôn ngữ và chữ viết của
mình, vì “tiếng Chàm còn thì người Chàm
còn; tiếng Chàm mất thì người Chàm mất”.
Nếu
tồn tại được mà không phát triển thì chỉ “tồn
tại như một dân tộc bần cùng”, “vùi dập
trong cuộc sống lạc hậu, tối tăm”.
Có lẽ
đó cũng chính là lời kết của bài viết này về… “Người Chàm trong mắt tôi”.
…….
Thánh địa Mỹ Sơn
Nguyễn Ngọc Chính
***
Chú
thích:
[1]
Tagalau tiếng Chàm là cây bằng lăng hoa tím, mọc nhiều ở miền núi Ninh Thuận và
Bình Thuận. Tuyển tập mang tên Tagalau vì nó tượng trưng cho tính dân dã, sức
chịu đựng, sự khiêm tốn: nỗ lực nở hoa dù phải mọc trên mảnh đất nghèo cằn.
Tagalau
là Tuyển tập chứ không phải là Tạp chí nên không ra định kỳ, mà chỉ được xuất bản
khi tập hợp đủ bài vở. Số đầu tiên của Tuyển tập Tagalau ra mắt vào lễ Katê của
người Chàm năm 2000.
[2]
Chế Lan Viên (1920 – 1989), tên thật là Phan Ngọc Hoan, ra đời tại xã Cam An,
huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành
chung rồi đi dạy tư kiếm sống. Có thể xem Quy Nhơn, Bình Định là quê hương thứ
hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà
thơ.
Ông
bắt đầu làm thơ từ năm 12 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất
bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn
nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn". Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở
nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam.
Trước
năm 1945, thơ Chế Lan Viên là một thế giới đúng nghĩa "trường thơ loạn":
Kinh dị, thần bí, bế tắc của thời Điêu tàn với xương, máu, sọ người, với những
cảnh đổ nát của tháp Chàm. Những tháp Chàm "điêu tàn" là một nguồn cảm
hứng lớn đáng chú ý của Chế Lan Viên. Qua những phế tích đổ nát và không kém phần
kinh dị trong thơ Chế Lan Viên, ta thấy ẩn hiện hình bóng của một vương quốc
hùng mạnh thời vàng son, cùng với nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ.
Phong
cách thơ Chế Lan Viên rất rõ nét và độc đáo. Thơ ông là sức mạnh trí tuệ được
biểu hiện trong khuynh hướng suy tưởng - triết lý, "chất suy tưởng triết
lí mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo
bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa". Con gái ông, bà Phan Thị Vàng Anh,
cũng là một nhà văn nổi tiếng.
[3]
Hận Đồ Bàn do ca sĩ Chế Linh trình bày:
http://mp3.zing.vn/bai-hat/Ha-n-Do-Ba-n-Che-Linh/IW7AZZCO.html
[4]
Tham khảo về Chế Linh tại:
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2013/08/sen-hay-sang.html
[5]
Tham khảo trang web của Inrasara về chuyện Chế Linh và Nguyễn Thị Thúy Hằng:http://inrasara.com/2010/11/26/
theo
nguoidongbang.blogspot.com.au (Nguồn: Chinhhoiuc)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét