Hồ Quý Ly, trước có tên là Lý Quý Ly, tự là Lý Nguyên, sinh năm 1335. Theo gia phả họ Hồ, Quý Ly vốn dòng dõi xa của Hồ Hưng Dật, vốn người Chiết Giang, Trung Quốc, sang làm Thái thú Diễn Châu (Nghệ An) thời Hậu Hán.
Ông có 2 người cô được vua Trần Minh Tông lấy làm cung
phi và đều trở thành mẹ của hai vua Trần.
Vì vậy, khi Trần Nghệ Tông lên ngôi, vua đã rất tín
nhiệm và cất nhắc ông từ chức Chi hậu Tức cục Chánh chưởng lên Khu mật Đại sứ rồi
lên Tiểu tư không, tiến phong Đồng bình chương sự, gia phong đến Phụ chính Thái
sư nhiếp chính, Khâm Đức Hưng Liệt Đại Vương, Quốc tổ Chương hoàng. Sau đó ông
cướp ngôi nhà Trần, đặt quốc hiệu là Đại Ngu, truyền ngôi cho con là Hán
Thương.
Khi lên ngôi, ông đã có những sự thay đổi về hành
chính, kinh tế và quân sự. Mười tháng sau khi lên ngôi, ông đã phát binh thảo
phạt nước Chiêm Thành ở phía Nam, qua hai lần phát binh, chiếm được hai châu Đại
Chiêm và Cổ Lũy của Chiêm Thành.
Đến năm 1406, nhà Minh đưa quân xâm lược Đại Ngu, quân
Đại Ngu thất bại, lui dần về phía nam và thất bại toàn cục năm 1407 khi cha con
Hồ Quý Ly đều bị quân Minh bắt và giải về Trung Quốc.
Câu
chuyện “được vợ” lạ lùng của Hồ Quý Ly
Có thể nói, nếu không có 2 người cô lấy vua, không được
Trần Nghệ Tông tín nhiệm đến mê mẩn trao đại quyền thì sợi dây tơ hồng của Hồ
Quý Ly có lẽ đã không len lỏi được vào dòng họ Đông A.
Giai thoại kể rằng lúc Quý Ly còn trai trẻ hàn vi thường
theo đường biển đi buôn. Một hôm thuyền chở hàng của ông ghé vào bờ, thấy trên
bãi biển có ai vạch lên cát câu thơ:
“Quảng Hàn cung lý nhất chi mai”
(Trong
cung Quảng Hàn một cành mai.)
Quý Ly liền nhẩm thuộc lòng câu ấy.
Sau này, đến khi được làm quan, một hôm ông hộ giá vua
Trần đi chơi, nửa chừng ghé vào tránh nắng ở điện Thanh Thử, nơi trước điện có
hàng ngàn cây quế.
Nhà vua nhân hứng, liền ra một vế đối:
“Thanh
Thử điện tiền thiên thụ quế”.
(Trước
điện Thanh Thử ngàn gốc quế)
Các quan đi
theo đang lúng túng chưa biết đối lại vua ra sao thì Hồ Quý Ly đã nhanhh chóng
nhớ lại câu thơ trên bãi biển năm xưa, bèn buông lời đối:
“Quảng
Hàn cung lý nhất chi mai”.
Cả 2 câu ghép lại thành đôi vế đối nhau rất chỉnh, tạm
dịch là:
Trước
điện Thanh Thử ngàn gốc quế.
Trong
cung Quảng Hàn một cành mai.
Nghe xong, các quan đều bái phục tài văn chương của Hồ
Quý Ly. Vua Trần vừa phục, vừa thấy lạ lùng bởi nhà vua có một nàng công chúa
đặt tên là Nhất Chi Mai.
Nàng ở trong cung cấm kín không ra ngoài nên kể cả các
quan gần gũi cũng rất ít người biết.
Vua hỏi Hồ Quý Ly tại sao lại biết được việc kín
trong cung, rồi chuyện tòa lầu của công chúa ở là cung Quảng Hàn do chính vua đặt
tên? Hồ Quý Ly cứ thật tình tâu bày chuyện câu thơ năm xưa trên bãi biển.
Nhà vua ngẫm rồi nói đó quả thật là duyên trời run rủi
định trước. Bởi vua có một người em gái tên Nhất Chi Mai (công chúa Huy Ninh) dựng
cung Quảng Hàn riêng để ở.
Hoàng đế cho rằng đây là chuyện lạ, duyên số bèn gả Nhất
Chi Mai cho Hồ Quý Ly. Về sau họ sinh ra 2 người con là Hồ Thánh Ngẫu và Hồ
Hán Thương.
Trước lúc lấy Hồ Quý Ly, công chúa Huy Ninh đang để
tang chồng là Phó kỳ lang Trần Nhân Vinh mới bị giết. Tuy nhiên, cuộc “lấy lại”
kỳ lạ này đều được cả chính sử và dã sử cho rằng đó là mối tình lạ, một thiên
tình sử mà người đời rất ngưỡng mộ.
Bởi lẽ, ngoài duyên cớ như là trời định sẵn kia thì cuộc
hôn nhân này đã bất chấp cả quy chế đặt ra từ đời Trần Thủ Độ đó là người trong
hoàng tộc nhà Trần không được lấy người họ khác.
Tiếng
hát se duyên vợ chồng
Một trong những người vợ khác của Hồ Quý Ly vẫn được
người đời truyền tụng đó là bà Nguyễn Thị Dầm.
Tương truyền ngày ấy Hồ Quý Ly chọn nơi thao lược binh
mã quần hùng, quân lính tập trận ngay tại thôn ô Cách, xã Thanh Thủy, huyện
Thanh Liêm (tỉnh Hà Nam lúc bấy giờ). Thanh niên trai tráng ngày đêm luyện võ,
con gái đi chợ bán hàng.
Tình cờ, một hôm người thiếu nữ xinh đẹp là Nguyễn Thị
Dầm đi cắt cỏ ven sông Đáy và cất tiếng hát:
“Tay
cầm bán nguyệt đưa ngang
Em
là phận gái sửa sang cõi bờ
Nửa
vành trăng sáng đơn sơ
Trăm
ngàn ngọn cỏ ngẩn ngơ quy hàng”.
Không ngờ tiếng hát trong trẻo, thánh thót như chim
hót của người con gái ấy cất lên đúng lúc Hồ Quý Ly đang ngự thuyền trên dòng
sông Đáy. Ông cho thuyền dừng lại, cầm tay thôn nữ hỏi rằng:
“Nàng là ai mà lời ca như tiên giáng thế, ta cảm
kích cả cõi lòng. Biết đâu người này sau sẽ giúp ta làm nên sự nghiệp...”.
Cô gái bất chợt ngỡ ngàng, bẽn lẽn:
“Cũng chưa biết người xa lạ ấy đi đâu. Nhưng
đã hỏi xin được thưa rằng: Hữu danh là Nguyễn Thị Dầm, người thôn Ô Cách, con
nhà điền nông lam lũ, quanh năm cắt cỏ chăn trâu, buồn vắng riêng tư thì đọc lời
dân dã cho khuây chứ đâu dám khiến người ngoài cảm kích… Xin ai đừng cầm tay phận
gái”.
Ông càng chột dạ bàng hoàng. Cứ thế một gánh cỏ non tơ
chưa đầy đặn, một lưỡi liềm sáng chói, một cô gái trắng ngần, trong trẻo, được
rước lên thuyền rồng cùng vua xuôi dòng. Rồi Hồ Quý Ly xin cha mẹ, làng xóm cưới
nàng làm vợ lẽ.
Kết hôn với người vợ này, Hồ Quý Ly sinh được hai người
con gái. Sau bà Nguyễn Thị Dầm được phong 2 sắc phong là Bảo Long Thánh Mẫu và
Hoàng hậu đệ tam trinh tiết.
….
Nguồn:
http://kienthuc.net.vn
http://kienthuc.net.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét