Kế
thừa chính sách xưa, các vua nhà Lý thường lấy hôn nhân làm mối quan hệ ràng buộc,
gắn kết với các tù trưởng người dân tộc thiểu số, tuy nhiên không phải lúc nào
cũng thuận lợi.
Bấy giờ ngoại trừ Hoàng hậu Thượng Dương sinh hạ được
hai công chúa Từ Thục, Từ Huy và một phi tần sinh ra Công chúa Thiên Thành, còn
những người khác đều không sinh được con nào.
CHUYỆN
KỲ LẠ VỀ HAI CÔNG CHÚA XUẤT GIA NHƯNG BỊ VUA CHA ĐỐT CHÙA, SAU TU THÀNH BỒ TÁT
Chuyện kể rằng, Lý Thánh Tông vốn là vị vua hiếm muộn,
trước khi ông đi cầu tự nhiều nơi, rồi gặp Ỷ Lan lấy về làm vợ mới sinh được
hai người con trai, con cả là Lý Càn Đức được nối ngôi (tức Lý Nhân Tông) thì tất
cả các phi tần không ai sinh được cho vua con trai để nối dõi.
Chịu ảnh hưởng của Phật giáo, khi chớm tuổi trưởng
thành, hai công chúa Từ Thục, Từ Huy xin vua cha được xuất gia tu hành, Lý
Thánh Tông cho xây dựng tại làng Đông Phù (nay thuộc xã Đông Mỹ, huyện Thanh
Trì, Hà Nội) ngôi chùa Hưng Long tự (còn gọi là chùa Nhót) cho hai con gái.
Tương truyền ban đầu hai công chúa về núi Trúc (Trúc
Lĩnh), làng Tương Khúc, Tự Khoát, Vẹt (Việt Yên) thuộc huyện Thanh Trì ngắm
nhìn mải mê cảnh vật nơi đây.
Thấy giữa đồng bằng nổi lên một ngọn núi, rất nhiều
trúc mọc chen chúc, phía mặt tiền có thủy điều, bên cạnh lại có án tiền là gò
(Đỉnh Yến), bên hữu nhiều gò nổi lên đều chầu về núi Trúc.
Hai công chúa đều nhận thấy đúng là nơi linh địa, dân
quanh vùng thì thuần hậu bèn dựng am trên đỉnh núi Trúc tu hành.
Sau khi thị sát thấy dân chúng vẫn còn cảnh đói nghèo
vì thiếu ruộng canh tác, với tấm lòng từ bi hai công chúa đã xuất hết vàng bạc
mua ruộng đất chia cấp cho dân.
Cảm thương nỗi khổ cực thiếu thốn của họ, hai bà còn
xin vua và được ban hơn 3000 mẫu ruộng đem chia hết cho dân 9 làng thuộc đất
Nam Phù ( phía Nam huyện Thanh Trì ngày nay) rồi cho dựng điền trang, dạy dân
khai khẩn ruộng đồng, đem giống mới về trồng cấy, dạy dân làm các loại bánh
trôi, bánh dầy và một số nghề thủ công mây tre đan...
Đời sau có câu rằng:
"Hai
con gái, Thánh Tông hoàng đế
Chị
Từ Thục tuổi chỉ mười hai.
Em
Từ Huy đóa hương nhài.
Ngại
ngùng chỉ sợ đến vài năm sau
Lại
lấy chồng, tuyến đầu biên giới.
Xa
mẹ cha, ngại cả rừng xanh.
Thế
nên xin được tu hành.
Vào
chùa niệm Phật để thành ni sư"...
Do tiếp tục kế sách gìn giữ phên dậu, bảo vệ bờ cõi bằng
hôn nhân mà các tiên vương đã đề ra nên đến khi cần tạo mối ràng buộc chính trị,
Lý Thánh Tông không còn cách nào khác là cho gọi Từ Thục và Từ Huy về kinh để
đi lấy chồng nơi biên cương.
Hai vị ni sư rất trăn trở suy nghĩ, không về thì mang
tiếng tội bất hiếu chống lệnh vua cha, mà về thì việc tu hành dang dở, hơn nữa
cả hai đã một lòng theo đạo Phật, thực hành thiền định, hành Bồ Tát đạo, đã thấy
hạnh nguyên viên mãn có thể cứu khổ, cứu nạn cho bao người vì thế hai vị còn
phân vân, do dự.
Vua Lý Thánh Tông thấy việc chậm trễ trong phút nóng
giận đã ra lệnh đốt chùa, hai vị ni sư được các tín đồ Phật tử và dân chúng rước
về làng Tự Khoát, trú trên núi Trúc Lĩnh.
Không lâu sau nhà vua cảm kích và hối hận không ép buộc
nữa mà để hai con gái tiếp tục tu hành, vua còn ra lệnh dựng lại chùa Đông Phù,
bởi thế chùa còn có tên là Chùa Đền, hiện trong chùa có lưu giữ một số dấu tích
bị đốt cháy...
Lý Thánh Tông còn xuất tiền dựng thêm chùa trên đỉnh
núi Trúc Lĩnh và đặt tên là Hưng Phúc tự, vì thuộc làng Tự Khoát nên chùa được
gọi là chùa Tự Khoát. Về chuyện này, người đời có câu ca lưu truyền như sau:
"Bởi
có lệnh vua cha hối thúc
Phải
lấy chồng châu mục Lạng Sơn
Còn
đường nào tính thiệt hơn
Mối
giường phên dậu bảo tồn quốc gia
Đã
trù trừ vua cha nổi giận
Lý
Thánh Tông hạ lệnh đốt chùa
Cho
rằng dám trái lệnh vua
Dân
làng Tự Khoát kịp vừa rước sư
Các
tín đồ Đông Phù sang đón.
Hai
vị về chỉnh đốn am thiền
Về
sau chùa được xây lên
Nhà
vua hối hận làm đền hơn xưa.
Hưng
Phúc tự vua vừa cho chữ
Tên
Nam Trù lưu giữ vua ban
Cả
chùa Đỉnh Trúc xây thêm
Vua
tặng chín xã tổng tên Nam Phù
Chùa
Tự Khoát kể từ dạo ấy
Nhị
bồ tát đã thấy tình dân
Hội
chùa lễ rước tôn thân
Ni
sư triều Lý nhiều vần thơ dâng:
"Lý
đại hà niên song đế nữ
Liên
đài thử địa lưỡng thần tiên".
Sau khi được vua cha cho tiếp tục con đường tu hành,
trải qua mấy chục năm, hai vị ni sư chuyên tâm thực hành thiền định, viên mãn.
Hai vị cho dựng hai am thất dưới lòng đất bằng gỗ
thông, tại cánh đồng hoa sen (nay thuộc làng Tè, Ninh Xá, xã Ninh Sở, huyện Thường
Tín, Hà Nội) rồi cùng hai thị giả là Quỳnh Hoa và Quế Hoa xuống am đường nhập
thất rồi di chúc cho dân trong vùng rằng:
"Sau
bách nhật chúng tôi thu thần nhập diệt. Làng nào biết mà lấp cửa hang trước thì
làng ấy được tôn là trưởng am đời đời".
Sau khi hai vị ni sư công chúa viên tịch, nhớ đến công
đức của hai bà, nhân dân tổng Nam Phù gồm 9 xã: Tự Khoát, Tự Trúc, Mỹ Liệt, Việt
Yên, Đông Trạch, Đông Phù, Đam Uyên, Thanh Phúc và Mỹ Á, cùng với dân làng Tè dựng
thêm chùa, xây đền đều tạc tượng.
Lập bài vị thờ phụng và hàng năm tổ chức lễ hội long
trọng để tưởng nhớ ân đức "nhị vị Bồ Tát" vào các ngày 14, 15, 16
tháng Ba Âm lịch.
Lễ hội được tổ chức khá quy mô thu hút đông đảo nhân
dân trong vùng và dân khắp nới tham dự. Đời sau sắc phong, suy tôn hai công
chúa là Nhị vị Vương bà, Đại Thánh Bao phong Đại Bồ Tát Hồng liên tọa hạ, Thượng
đẳng phúc thần, Lý Liễu Đoan trang Công chúa.
Giai thoại về Lý Thánh Tông đốt chùa và hai nàng công
chúa Từ Thục, Từ Huy đủ nói lên triều đại nhà Lý, các công chúa đều bị thiệt
thòi, không ai được làm những điều sở thích và làm những việc như: tuyển chọn
kém phò mã, rồi muốn ở chốn kinh đô để gần vua cha và mẫu hậu cũng không được…
Qua đó cũng cho thấy có những lúc chính sách ràng buộc
bằng hôn nhân được Triều Lý thực hiện rất quyết liệt bởi thế công chúa nhà Lý
đã được người đời ghi nhận để ơn nhớ đến mãi ngàn sau vì biết quên thân mình vì
dân vì nước.
Nguồn:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét