Tác giả Nguyên Lạc
LOẠN
BÚT VỀ THÚ CHƠI CHỮ
Cẩn Báo:
Bài viết này cấm trẻ dưới 18 tuổi. Các bà và
các cụ “đạo cao đức trọng” xin
cẩn thận.
Dẫn Nhập:
“Đời
như giấc chiêm bao”/ Xử thế nhược đại mộng - Lý Bạch. Hãy vui lên, hãy nâng ly
lên cùng nhau hát: “Một 'chăm' em ơi, chiều nay một 'chăm' phần 'chăm'...”, rồi
cùng Nguyên Lạc tui cười chút chơi.
“Laughter
is the best medicine/ Cười là liều thuốc vạn năng”
CÁC CÂU THƠ "ẤN TƯỢNG"
Bắt đầu bằng các câu thơ “ấn tượng” của thi sĩ Hoàng Xuân Sơn:
Nhắc Đèo Thì Đèo
cù
mông cù mông
nhột
không?
cù
mông đèo đứng
tồng
ngồng lõa sương
Bài thơ này “chơi
chữ”, đọc xong tôi có “hứng khởi”
loạn bàn sơ lược về thú chơi thanh cao của người xưa – “Chơi Chữ”. Tôi
hiểu được ít nhiều về thú chơi này từ sách ông Lãng Nhân Phùng Tất
Đắc. Xin ghi ra đây vài hàng về ông Phùng:
1. Tiểu sử Phùng Tất Đắc
Phùng Tất Đắc
(1907-2008), bút hiệu Lãng Nhân, Cố Nhi Tân và Tị Tân. Sinh quán Hà Nội. Năm
1954, di cư vào Nam. Từ 1954 đến 1975, phụ trách nhà in Kim Lai và nhà xuất bản
Nam Chi Tùng Thư. Năm 1975, tỵ nạn tại Cambridge, Anh quốc. Ông qua đời ngày
29-2-2008.
Các tác phẩm đã xuất bản: Trước Đèn, Chuyện Vô Lý,
Chơi Chữ, Cáo Tồn, Giai Thoại Làng Nho, Hán Văn Tinh Túy, Thơ Pháp Tuyển Dịch,
Chuyện Cà Kê, Khổng Tử, Tư Mã Quang-Vương An Thạch, Nguyễn Thái Học, Tôn Thất
Thuyết, Nghiêm Phục, Hương Sắc Quê Mình, Nhớ Nơi Kỳ Ngộ.
Chơi Chữ, Giai Thoại Làng Nho là hai tác phẩm được
nhiều người thích đọc trước 1975.
Tư liệu tôi tham khảo để viết bài này từ sách
“Chơi Chữ” do Nam Chi Tùng Thư xuất bản năm 1970.
2. Vài trích đoạn lý thú trong sách Chơi Chữ:
- Mở đầu tác phẩm Chơi Chữ, ông Phùng viết:
“Nghề
chơi cũng lắm công phu”, huống hồ chơi… chữ!
Chơi chữ cần có những yếu tố không phải ai cũng gom được
đủ: có học đã đành, nhưng còn phải có tàị.
Học có hàm súc, mới biết dùng chữ cho rành rẽ, dùng điển
cho đích đáng, khiến câu văn ít lời mà nhiều ý; tài có mẫn tiệp, mới lĩnh hội
được mau lẹ những nét trội trong một cảnh huống, và diễn xuất ra một cách nhanh
chóng, đột ngột, hồ như là tự nhiên.
Trong văn
chương ta, có nhiều lối chơi: Thơ, phú, câu đối, tập Kiều ..., sử dụng lối nào
là tùy theo tình, theo cảnh, theo cách cấu tứ mà phô diễn ra cho phù hợp với
nguồn cảm hứng trong giờ phút đó của nhà văn.
Hai cách chơi chữ trong tiếng Việt được thấy nhiều nhất
là “Nói Lái” và dùng chữ “Đồng Âm Khác Nghĩa”.
NÓI LÁI
1. Do tiếng Việt là ngôn ngữ độc âm, nhờ thế rất dễ
dàng trong lối Nói Lái. Hẳn ai cũng đều từng nghe câu này:
- “Vấn đề khó
khăn nhất bây giờ là chuyện đầu tiên”.
Đầu tiên nghĩa là tiền đâu.
- Và ai cũng hiểu câu này:
“Bàn
cho nhiều rồi thì cũng vũ như cẩn mà thôi”.
Khi nghe câu này lần đầu tiên, tôi không hiểu. Ngẫm
nghĩ một hồi mới nghĩ ra: Vũ Như Cẩn nghĩa là Vẫn Như Cũ!
- Với phái nam, nếu được ai khen mình là Người Sáng
Chói thì không nên vội mừng vì có thể họ bảo mình là Người Sói Trán.
- Còn với phái nữ, lỡ được ai khen trông giống Hương
Qua Đèo thì coi chừng họ đang bảo mình là Heo Qua Đường!
- Có khi nói lái được nâng lên một mức khó hơn khi kết
hợp với chữ Hán Việt.
Nhà văn Lãng Nhân đã ghi lại câu nói lái sau đây:
“Nam
Đáo Nữ Phòng, Nam Bất Chính”
Nam Bất Chính là người nam không chính đáng, không
đàng hoàng: Người nam vào phòng người nữ là không chính đáng, không đàng hoàng.
Vậy, nếu Nữ
Đáo Nam Phòng thì sao?
“Nữ
Đáo Nam Phòng, Thạch Bất Truy”
Người nữ vào phòng nam thì Thạch Bất Truy? “Thạch Bất Truy” là gì?
Muốn hiểu cụm từ bí hiểm này ta phải dịch từng chữ một:
Thạch là Đá, Bất là Không, Truy là Theo: Thạch Bất
Truy là “Đá Không Theo”
Đồng
Âm Khác Nghĩa
“Chơi
Chữ”
còn nhắc tới một giai thoại về Đồng Âm Khác Nghĩa:
Báo Trung Bắc do hai ông Nguyễn Đỗ Mục và Dương Bá Trạc
chủ trương, một lần đã ra câu đối như sau:
Vợ
cả vợ hai, hai vợ cùng là vợ cả
Nghe tưởng chừng đơn giản phải không?
Nhưng thật ra là một câu đối rất lắt léo: Chữ “cả” theo miền Bắc có nghĩa là “lớn”, cũng có nghĩa là “cùng”. Câu này có 2 nghĩa: Nghĩa thứ nhất:
Vợ lớn vợ nhỏ gì đều cùng là vợ.
Nhưng nghĩa thứ là: Vợ lớn vợ nhỏ đều
cùng là vợ lớn, đều quan trọng không kém gì nhau.
Khó thế nhưng vẫn có nhiều người gởi câu đối về tòa
báo. Câu đối được chấm giải nhất là câu sau đây:
Con
nuôi con đẻ, đẻ con há cậy con nuôi.
Chữ “con nuôi” ở đây có hai nghĩa. Khi dùng
làm danh từ, “con nuôi” là người con mình nhận nuôi. Khi là động từ,
nghĩa là con cái nuôi mình. Do đó,
câu này có hai nghĩa: Nghĩa thứ nhất: Giữa
con nuôi và con đẻ, mình không nên nhờ cậy người con nuôi. Nghĩa thứ hai: mình có hai đứa con, vừa con nuôi vừa con đẻ,
nhưng một khi đã đẻ con ra được thì chẳng cần nhờ tới đứa nào nuôi hết (há
cậy nghĩa là chẳng cần nhờ cậy).
2. Những đoạn trên là của Lãng Nhân – Phùng Tất Đắc.
Tôi xin ghi ra thêm vài ý của tôi trích từ bài viết đã đăng trên các
trang web:
[ ... Nói lái (Spoonerism) là một trong những biện
pháp tu từ trong tiếng việt. Khi nói lái, người ta tráo đổi vị trí của các
thành phần của từ (âm đầu, âm cuối, thanh điệu, …) để tạo ra từ mới thường có
nghĩa bất ngờ, dí dỏm, khi hiểu ra thường làm bật cười. Nói lái thường đưọc
dùng trong văn nói, khẩu ngữ và trong văn học dân gian để trêu đùa, đả kích
hay thông báo với ai đó một điều gì bí mật hoặc để tránh những tiếng thô tục.
Như vậy, nói lái là một hình thức vô cùng độc đáo của
ngôn ngữ Việt, với khả năng nhạy bén về tính trào phúng và châm chọc.
Những thí dụ minh họa:
a.
Các cụm từ nói lái như: Bùi Giáng = Bán Giùi (Dùi); Thầy giáo = Tháo
giày; Hiện đại chỉ tổ hại điện. Đấu tranh rồi biết tránh đâu…
Xứ
Thủ đức năm canh thức đủ
Kẻ
cơ thần trở lại Cần thơ - (cơ thần là cô độc)
Củ
chi. cô bán củ chi?
-
Củ sao không chỉ, ông nì chỉ cu?
-
(Củ chi: tên một Huyện miền Nam) ...]
b.
Nhớ lại khoảng 1945, có một ông già Quảng Nam, đã
chơi trò chơi chữ nghĩa này bằng 4 câu thơ:
Chú
phỉnh tôi rồi chính phủ ơi
Chú
khiêng lên hết chiến khu rồi
Thi
đua chi mà thua đi mãi
Kháng
chiến trường kỳ khiến chán thôi
3. Bà Hồ Xuân Hương có rất nhiều bài thơ nói lái để
ghẹo người khác. Nhà thơ Xuân Diệu đã gọi Hồ Xuân Hương là “Bà chúa thơ Nôm” (1772-1822). Thơ của bà vừa thanh vừa tục nhất là
thơ nói lái. Sẽ ghi ra một bài thơ tiêu biểu của bà ở dưới
CÂU ĐỐI
1.Thú chơi câu đối từ đâu có?
Các cụ xưa
rất thích làm thơ Đường luật: Thất ngôn bát cú - 7 chữ 8 câu, một
thể thơ có niêm luật ... rất nghiêm ngặt. Đặc biệt nhất là 2 cặp 3-4
và 5-6 (Cặp 3-4: Thực; 5-6: Luận). Trong các cặp này chữ đối nhau:
Danh từ đối danh từ, tỉnh từ đối tỉnh từ, thanh bằng đối với thanh
trắc vân vân. Thí dụ bài thơ sau đây của Hồ Xuân Hương: "Chùa Quán Sứ"
Chùa Quán Sứ
Quán
Sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi
thăm sư cụ đáo nơi neo?
Chày
kình tiểu để suông không đấm
Tràng
hạt vãi lần đếm lại đeo
Sáng
banh không kẻ khua tang mít
Trưa
trật nào người móc kẽ rêu
Cha
kiếp đường tu sao lắt léo
Cảnh
buồn thêm ngán nợ tình đeo.
(Hồ Xuân Hương)
Các bạn thấy cặp Thực: “Chày kình tiểu để suông không đấm/ Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo”
và cặp Luận: “Sáng banh không kẻ khua
tang mít/ Trưa trật nào người móc kẽ rêu” các chữ đối nhau sát sao.
Thú chơi câu đối chắc phát xuất từ các cặp thơ
nầy.
2. Các câu đối nổi tiếng
Sau đây tôi xin dẫn ra các câu đối nổi tiếng ai
cũng biết:
Vũ
vô kiềm tỏa năng lưu khách
Sắc
bất ba đào dị nịch nhân
(Đàm
Thuận Huy và Nguyễn Giản Thanh)
(Mưa không phải then khóa mà giữ được khách/ Sắc đẹp
không phải sóng gió mà nhấn chìm được người)
Ai
công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế
Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
(Đặng
Trần Thường ra đối để trả thù, Ngô Thì Nhậm đối lại)
Và giai thoại hai câu để đời trước khi lên pháp trường của Cao Bá Quát:
Ba
hồi trống dục đù cha kiếp
Một
nhát gươm đưa đéo mẹ đời
3. Vài câu đối trong sách Chơi Chữ của Lãng
Nhân
- Cụ Yên Đổ đùa một ông quan võ chột mắt:
Cung
kiếm ra tay, thiên hạ đổ dồn hai mắt lại
Triều
đình cử mục, anh hùng chỉ có một ngươi thôi
- Ông Trần
Bình là tay hay chữ. Một bữa ngồi uống rượu với 2 bạn: Ông Vi có bộ
răng đẹp, nhưng răng giả; ông Quốc có hai vợ nhưng hiềm nổi tuổi ông
đã cao và đang giở màu tu tỉnh. Ông Trần đọc hai câu đũa như sau:
Hàm
răng mang nặng, hàm răng giả
Túi
đạn đeo thừa, túi đạn chay
Có ý nói
hai ông bạn tuy là quan đại thần, nhưng trông kỹ ra thì trên dưới chẳng
… ra "thể thống" gì cả
- Cô Tư Hồng,
tay cừ khôi trong những bà xung phong làm kỹ nghệ lấy Tây, là người
tháo vát. Cô Hồng đóng góp gạo phát chẩn cho dân đói được vua ban
hàm tứ phẩm, ông cụ thân sinh cô cũng được tặng phong.Ông Trần Bình
mừng bằng câu đối:
Mừng Cô Tư Hồng
Bốn
chữ sắc phong hàm cụ lớn
Ba
thuyền tế độ của bà to
“Hàm
cụ”
đối với “của bà” thật xứng
đáng với hai người được ân thưởng.
4. Vài chuyện vui về câu đối
- Đây là câu đối trong bài thơ Chữ Nhàn của
Nguyễn Công Trứ mà các học sinh trung học trước 1975 ai cũng biết:
Thị
tại môn tiền náo
Nguyệt
lai môn hạ nhàn
(Chợ
trước cữa thì ầm ĩ
Trăng
đến dưới cữa thì nhàn rỗi)
Nhàn: 間 - nhàn hạ, rảnh rỗi. Chữ Nguyệt trong chữ Môn
Náo: 閙 - ầm ĩ. Chữ Thị trong chữ Môn
- Sau đây là các câu đối vui:
Danh ngôn Hán Việt có câu:
Bần
cư náo thị vô nhân vấn
Phú
tại thâm sơn hữu viễn tầm
(Nghèo ở chợ đông không đứa hỏi/ Giàu nơi núi thẳm lắm
người tìm thăm)
Truyện tiếu lâm về câu đối nầy:
Trong các tiệc rượu được các “ông thần ve chai” Nam bộ tôi sửa lại như sau:
Bần
cưa ván ngựa đen như sắn
Mọc
cặp mé sông đứng chết trân
Hay:
Bần
cưa khúc bự vô phương vác
Cú
tại màng tang đứng chết trân
(Ý tôi: - Ông này đúng là ngớ ngẩn, cưa thành
nhiều khúc nhỏ thì vác được chứ gì, phải không?)
Hoặc:
“Bần
cưa ván ngựa vô phương đóng
Cú
tại màng tang đứng chết trân”
- Sau đây là chuyện vui tôi tham khảo từ cụ Lãng
Nhân Phùng Tất Đắc, viết lại theo văn riêng mình:
Lúc xưa, nhà
các cụ Đồ thường ngăn ra thành hai phần bằng tấm vách mỏng: Phần
trước dùng làm phòng dạy học, dạy dăm trẻ “chi hồ giả dã”; phần sau dùng cho sinh hoạt của ông bà Đồ.
Một sáng nọ,
cụ Đồ đanh giảng bài nhưng thấy trò A lơ đãng, không chịu lắng nghe.
Đến buổi trưa dạy xong, ông cho học trò về, nhưng giữ lại A , bắt quỳ
giữa phòng học và nói:
- Ta sẽ ra cho mi một câu hỏi đối vì tội lơ
đãng không chịu siêng năng học; nếu mi đối được thì ta cho về, còn
nếu không được thì phải qùy tại đây cho đến tối.
Ông nhìn ra trước cửa, xong ra câu hỏi đối:
Tiền
đình kiến nhất điểu, thanh bất thanh huỳnh bất huỳnh, thanh huỳnh.
(Cửa
trước thấy một con chim, xanh không xanh vàng không vàng, xanh vàng)
Xong ông Đồ đi vào phòng sau gặp bà Đồ.
Quỳ gãi đầu
mãi một lúc mà vẫn chưa tìm được câu để đối, tên A mới lén chạy
đến vạch vách, kê mắt nhìn phòng sau, đang có tiếng động lạ. Mặt A
hớn hở, chạy trở lại giữa phòng học quỳ.
Chậ̣m một lúc sau, cụ đồ trở ra và hỏi:
- Sao, đối được chưa? Nói ta nghe
- Dạ thưa thầy, đây câu của thầy:
“Tiền
đình kiến nhất điểu, thanh bất thanh huỳnh bất huỳnh, thanh huỳnh”.
Con xin đối như vầy:
“Hậu
phòng ngộ nhị nhân, cục bất cục kịt bất kịt, cục kịt”
(Phòng
sau gặp 2 người, cục không cục kịt không kịt, cục kịt)
“Âm thanh” mà đối với màu sắc thì quá tuyệt
phải không các bạn?
VỀ BÀI THƠ "NHẮC ĐÈO THÌ ĐÈO"
Trở lại
bài thơ Nhắc Đèo Thì Đèo của
Hoàng Xuân Sơn trên, đây là bài thơ “chơi chữ” - nói lái và dùng chữ Đồng
Âm Khác Nghĩa: “cù mông đèo đứng”. Cù Mông là đèo Cù Mông ở miền Trung,
và cũng là ... cù mông. Còn "đèo đứng" thì cũng 2 nghĩa
chắc không cần bàn thêm, phải không?
1. Nói lái
Thấy thi sĩ Hoàng viết và các bạn bàn về
"đèo", tui "hồ hởi phấn khởi" đóng góp bằng trích
đoạn sau đây bài viết của tôi cho vui:
[ ... Làng nọ ở Đèo Ngang, nghèo khổ quá nên cầu xin
ông Trời giúp cho bớt khổ. Ông Trời bảo:
-- Các ngươi mang tên Đèo Ngang, vị tất phải
"đang nghèo". Than với thở cái nỗi gì. Này, đổi sang tên Đèo Nghếch
là toại nguyện ngay.
Quả thật, sau
đó dân làng "đếch nghèo": Ai nấy ăn nên làm ra, nhà cao cửa rộng, con
đàn, cháu đống.
Nhưng chẳng bao lâu sau dân làng lại nghèo xác, nghèo
xơ. Dân làng ơi ới gọi ông Trời.
Ông Trời tỉnh bơ phán:
-- Ôi, các ngươi đông con thế, nuôi sao nổi. Muốn
thoát nghèo, các ngươi e phải đổi tên lần nữa. Này nhé, đổi sang tên Đèo Đứng
là được việc... (Xin được miễn giải thích thêm) ...]
[Bàn Về Nói Lái - Nguyên Lạc]
2. Đồng Âm Khác Nghĩa
“Ấn
tượng” nhất trong bài thơ trên là câu:
“cù
mông đèo đứng”
- Đã cù mà bảo đừng là thế nào? - HXS
3. Câu đối
Từ câu thơ có đèo “Cù Mông” trên, một bạn thi sĩ - người có nhiều bài viết
trên Thư viện Hoa Sen - đã ra câu hỏi đối:
a. Câu đối bình thường:
- ĐẾN CÙ MÔNG ĐỢI NGƯỜI QUÂN TỬ
Tôi xin đối
-VỀ CỦ CHI MẮNG ĐỨA TIỂU NHÂN
b. Câu đối không bình thường:
Trong câu đối này có dùng “nói lái”, vì “nhạy
cảm” không tiện ghi ra, tôi xin chừa trống cặp chữ XY và WZ rồi nhờ
các bạn “điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa”. Xin mời:
- ĐẾN CÙ MÔNG, "X Y" ĐỢI NGƯỜI QUÂN TỬ
- VỀ CỦ CHI, "W Z" MẮNG ĐỨA TIỂU NHÂN
Các bạn nghĩ sao?
Các bạn nào có câu đối hay xin đóng góp, xem
như tấm lòng tưởng nhớ tiền nhân, tưởng nhớ đến thú chơi thanh cao
của người xưa, đã dần dần bị mai một.
Chắc chắn rất ít người trẻ ngày nay biết đến
thú chơi tao nhã này!
Nguyên Lạc
........
Nguồn:
Giai
Thoại Làng Nho, Chơi Chữ của Lãng Nhân. Internet ...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét