Lưu
ý: Với những người “không quen” hoặc “không thích nghe” những câu nói tục hay
tiếng chửi thề thường diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, lời khuyên chân thành
của tôi là không nên đọc bài viết và cũng không nên nghe những bản tục ca này.
Lý do: Lời 10 bài tục ca của Phạm Duy rất… “phản cảm” và có thể gây sự khó chịu
hoặc bực mình…
Tác giả Nguyễn Ngọc Chính
Đám
cưới năm 1948: Phạm Duy trong bộ quân phục bên Thái Hằng
Để biết một cách cặn kẽ nội dung của 10 bài tục ca
không có cách gì khác hơn là phải nghe qua những bài hát này [1]. Về mặt tiết
điệu, Phạm Duy viết tục ca bằng nhiều thể loại, từ dân ca hay qua lối kể chuyện
đến rock, blues và đến cả loại nhạc mà ông gọi là “quốc ca” (tôi nhấn mạnh, hai chữ này phải để trong ngoặc kép)
Phạm
Duy - Thái Hằng, trên cầu Thê Húc, Hà Nội, 1953
Con
đầu lòng, Phạm Duy Quang
Con
thứ hai, Phạm Duy Minh
Con
thứ bảy, Phạm Duy Ðức
Con
thứ tám, Phạm Thị Thái Hạnh
Tác giả Nguyễn Ngọc Chính
PHẠM
DUY VÀ MƯỜI BÀI TỤC CA
Nguyễn Ngọc Chính
Phạm
Duy thời trai trẻ ở chiến khu Bình Trị Thiên
Khi còn sinh thời, nhạc sĩ Phạm Duy đã có đôi lời tâm
sự về 10 bài tục ca của ông đọc trên băng cassette được phổ biến hạn chế và đến
nay gần như “thất truyền”:
“Hai
vị viết sách, viết báo về tôi là Tạ Tỵ và Georges Gauthier đều cho rằng cái
vui, cái tếu không phải là chất liệu Phạm Duy, cho nên tục ca không thành công.
Chưa kể có người chê tôi đi tới chỗ nhảm nhí trong nghệ thuật. Tôi cũng hiểu được
vì sao có những người chống đối tục ca dù họ không biết cặn kẽ nội dung của nó.
Tôi không hề tung tục ca ra quần chúng. Tôi chỉ tặng vài người bạn thân một
băng cassette ghi lại
buổi hát chơi ở Vũng Tầu và còn dặn dò đừng phổ biến!”
Có lẽ không nhà phê bình nào có đủ thẩm quyền hơn
chính tác giả khi nhận xét về những điểm yếu trong cuộc đời sáng tác của mình.
Trong trường hợp Phạm Duy, ông đã thẳng thắn nhìn nhận đã có nhiều người “chê” tục ca vì nó đi tới chỗ “nhảm nhí trong nghệ thuật” nhưng ông
cũng vạch ra lý do: “họ không biết cặn kẽ
nội dung của nó”.
Hình thức ca từ trong tục ca của Phạm Duy rất đa dạng
nhưng nổi bật hơn cả là rất tục tĩu. Có những bài quá sỗ sàng trong cách dùng
chữ, chẳng hạn như dùng huỵch tẹt một số từ ta thường nghe từ cửa miệng những kẻ
“đầu đường xó chợ” hoặc dân “đá cá lăn dưa” hoặc chửi thề một cách
không ngượng miệng.
Phạm
Duy – Thái Hằng, một tháng sau ngày cưới
(Ảnh chụp tại Chợ Neo, 1949)
Bạn đọc sẽ tìm thấy trong 4 tục ca cuối cùng (từ số 7
đến số 10) cả một kho từ ngữ trần trụi đến đến độ “khó nghe”, huỵch tẹt đến độ sỗ sàng. Tôi không tiện nhắc lại những
từ ngữ đó, làm như vậy sẽ mất đi tính nghiêm túc của bài phân tích, dù là phân
tích về… tục ca.
Hình như mức độ tục tĩu càng tăng từ tục ca 1 đến tục
ca 10. Loạt tục ca này, còn được Phạm Duy gọi là “những bài ca xã hội”, khởi đầu bằng bài số 1 với tựa đề Hát đối giữa
đôi trai gái theo âm điệu dân ca. Bài hát dựa theo ca dao:
Em
như cục cứt trôi sông
Anh
như con chó ngồi trông trên bờ...
Phạm Duy sáng tác thêm phần đối đáp giữa trai và
gái:
Em
đừng nói vậy em khờ
Ba
em hồi đó cũng chờ như anh...
…
Anh
như con đực chạy rông
Còn
em như con mèo cái, chổng mông em gào...
…
Anh
đừng nói chuyện tào lao
Má
anh hồi trước... cũng ồn ào như em...
Trong Tục ca số 2, Phạm Duy “nhại” bài thơ Hai sắc hoa ti gôn của T. T. KH: “người ấy thường hay vuốt tóc tôi…” để sáng tác thành Tình hôi. Đây
là chuyện tình của một cô gái có người yêu bị hôi nách. Bài hát kết thúc bằng
đoạn kết gây sốc cho người nghe ở câu cuối cùng:
Mỗi
lần ngửi thấy chết đi thôi
Nhưng
chót yêu anh, em ráng chịu cho rồi
Vả
chăng em vẫn thường hay nói:
L…
mình đôi lúc cũng... hôi hôi...
Có những bài lại tục về ý. Chẳng hạn như bài số 3, Gái lội qua khe, mà Phạm Duy cho biết
ông lấy từ ý thơ của Bùi Giáng. Nhạc sĩ giải thích về chiếc khăn vấn trên đầu,
tượng trưng cho tổ tiên, đem cho cô gái mượn để lau mình sau khi bị ướt dầm vì
lội qua suối. Tôi nghĩ đó là “ý tục”
trong tục ca của Phạm Duy. Bài Gái lội qua khe có những lời ca như sau trong đoạn
kết:
Tôi
nghe tổ tiên dưới mồ thức dậy
Tổ
tiên cũng nói rằng: gái cứ tự nhiên
Tùy
nghi sử dụng
Lau
bất cứ chỗ nào… cũng được.
Tục về cốt truyện thì có bài số 4 với nhan đề Úm Ba La! Ba Ta Cùng Khỏi! lấy ý của bố
Phạm Duy, Thọ An Phạm Duy Tốn, viết trong cuốn Truyện Tiếu Lâm An Nam xuất bản
vào đầu thế kỷ 20. Bài hát này mang một âm điệu dí dỏm bằng cách lập đi lập lại
điệp khúc “Úm ba la! Úm ba la…”
Chuyện vây quanh 3 nhân vật: chồng đi vắng nên người vợ
“tòm tèm” với củ khoai từ, người chồng
về, vợ cáo ốm nên đành “nghịch” với
con chó cái nhưng không ngờ dứt không ra. Cả hai năm đắp chăn nên phải nhờ thầy
bùa đến cúng kiến. Thầy lại tơ tưởng đến nậm rượu trên bàn thờ, bị mắc ngẫng
lôi ra không được.
Và đây là đoạn kết: chị vợ thấy ông thầy tay ôm khư
khư nậm rượu nên phì cười, củ khoai từ phọt ra. Tưởng là miếng thịt nên con chó
cái nhẩy vọt ra tìm cục mồi. Thầy bùa lại sợ chó cắn, hốt hoảng chạy và nậm rượu
đập vào bàn, vỡ tan tành. Thế là cả ba thoát nạn, thầy bùa bèn niệm chú: Úm ba
la! Ba ta cùng khỏi!
Con
thứ ba, Phạm Duy Hùng
Khoảng thời gian 1954 -1955 Phạm Duy học nhạc ở Pháp.
Ông rất mến mộ thi sĩ kiêm nhạc sĩ và ca sĩ Georges Brassens với những bài hát
tục tĩu (chansons grossières) nhưng bao giờ cũng được biểu diễn với tâm hồn
nghiêm túc của một thi nhân. Bài Gare Au Gorille của Brassens được Phạm Duy
chuyển ngữ sang Tục ca số 5 với tựa đề Khỉ
đột. Câu chuyện rất dài dòng, bạn đọc có thể nghe trong video clip Tục ca số
5. Bài hát có đoạn kết khá bất ngờ:
Nào
ngờ khỉ ta tuy có tiếng tăm
Là
tay khoẻ mạnh, vốn tay dâm thần,
Khỉ
ta khờ lắm!
Phải
chọn bà kia cho đúng lẽ ra
Ngờ
đâu khỉ đột nắm tai ông Toà
Cùng
ra chiến khu...
Tục ca số 6 có tựa đề Mạo hóa, từ ngữ Phạm Duy dùng để ám chỉ đồ giả phụ nữ hay dùng như “đít giả, vú giả, tóc giả, răng giả”
(sic). Bài hát có tới 2 đoạn kết, đạo đức giả và đạo đức thực, được bắt đầu bằng
4 câu:
Tôi
có người yêu cái đít to như Thẩm Thúy Hằng
Cái
đít nhìn qua đã khiến cho ta phải ngỡ ngàng
Vừa
to vừa lớn như những mặt vua
Đẹp
như mặt chúa cũng phải thua
Cứ thế bài hát chuyển sang bộ ngực, mái tóc, hàm răng
đều giả nhưng điều may mắn là trái tim không thể nào giả được nên vẫn còn giữ
được tình yêu. Tôi nghĩ, nếu muốn biết thêm đoạn kết thứ 2 độc giả nên tự khám
phá thì tốt hơn vì quả thật tôi hoàn toàn mất hết khả năng diễn đạt.
Con
thứ năm, Phạm Thị Thái Hiền
Với Tục ca số 7, thoạt đầu người nghe cứ tưởng như “nhi đồng ca”, nhưng thật ra lũ trẻ ranh
con có một cái thú “tinh quái” là đi
nhìn trộm các bà các cô ngồi tại cầu tiêu công cộng. Ý đã tục rồi nhưng lời lại
còn tục hơn với cái tựa đề thậm chí còn tục hơn nữa: Nhìn l…
Sau khi mô tả mọi kiểu âm hộ của các bà, các cô ngồi
trong cầu tiêu, bài hát đưa ta đến một đoạn kết thật bất ngờ. Tôi lại đành phải
để bạn đọc tự tìm hiểu khi nghe Tục ca số 7. Lần này không phải vì câu chữ khá “phản cảm” mà là cái bí mật rất hay của
đoạn kết.
Đối với 3 tục ca cuối cùng (số 8, 9 và 10) tôi cảm thấy
không còn đủ kiên nhẫn để viết tiếp về dòng tục ca của Phạm Duy. Tuy nhiên, phần
chú thích vẫn ghi đầy đủ tựa bài hát và lời giới thiệu của tác giả trong cả 10
viedeo clips. Người đọc nếu tò mò muốn biết xin cứ tự khám phá.
Con
thứ sáu, Phạm Thị Thái Thảo
Theo Phạm Duy, xã hội miền Nam vào cuối thập niên 60
đã chuyển từ trạng thái “ngả nghiêng”
đến tình trạng “băng hoại”. Đồng
đô-la được đổ vào để đáp ứng nhu cầu càng ngày càng leo thang của chiến tranh.
Trong khi đó, xã hội nảy sinh những tệ nạn như đĩ điếm, ma túy, buôn lậu còn tướng
tá, sư cố lại lao vào chính trị… Có lẽ sự đảo lộn xã hội đạt đỉnh điểm với một
trật tự mới: “nhất đĩ, nhì cha, ba sư, bốn
tướng” đã khiến Phạm Duy có một khúc ngoặt trong sáng tác.
Từ nhạc trong kháng chiến, tình ca, trường ca, tâm ca,
đạo ca… ông chuyển sang “vỉa hè ca”
qua những bài như Sức mấy mà buồn, Bỏ đi Tám, Nghèo mà không ham, Ô Kê Salem…
Những bài hát này dùng loại “ngôn ngữ
bình dân của thời đại” để phản ánh thực trạng xã hội. Theo tôi, đối với “vỉa hè ca”, người nghe nhạc rất dễ cảm
thông và chia sẻ với tác giả qua ca từ bình dị lẫn nội dung mới lạ. Đây là ý và
lời của vỉa hè ca số 1: Sức mấy mà buồn [2]:
Sức
mấy mà buồn! Buồn Giao Chỉ không lớn!
Sức
mấy mà buồn! Chịu chơi cả với buồn...
…
Tôi
buồn vì đấm đá mọi nơi.
Tôi
buồn vì chém giết tơi bời.
Tôi
buồn vì đất nước tả tơi...
…
Sức
mấy mà buồn, cười lên để tranh đấu!
Sức
mấy mà buồn vượt ra khỏi cái sầu!
Sức
mấy mà buồn niềm vui ở ta đến.
Sức
mấy mà buồn phải vui để sống còn!
Phạm Duy trần tình:
“Lúc tôi soạn vỉa hè ca là lúc quân đội ngoại quốc đổ bộ ào ạt vào Việt
Nam, trước sự xâm nhập của nền văn minh vật chất, một số người mình quả thực có
chạy theo lối sống Âu Mỹ! Sự ham muốn những gì quá tầm tay của mình, chẳng hạn
già như tôi mà còn mê gái sẽ bị gái nguýt cho một cái “Xí! Già mà ham”.
Bài “vỉa hè ca”
Nghèo mà không ham [3] vẽ ra một bức tranh xã hội của buổi giao thời với văn
minh vật chất Âu Mỹ.
“Không Honda ta cũng
đi xa, không đô-la ta cũng “xa-va”, không Sylvia ta có Thanh Nga, không Frank
Sinatra ta có câu hò xê cống xê sang sừ…”.
Hóa ra “vỉa hè
ca” lại biến thành một loại “luân lý
ca” với quan niệm “sống đẹp, chết
oai” dù có nghèo trong cuộc sống xa hoa do ngoại bang du nhập:
Sống cho đẹp là mình sống cho đẹp
Chết
cho oai là mình chết cho oai
Nghèo
mình nghèo là nghèo chơi chơi
Chưa
thực ai thực ai là nghèo...
Phạm Duy cho biết:
“Tôi
soạn vỉa hè ca và tục ca trước và sau khi đi Mỹ. Lúc đó, sự có mặt của người Mỹ
tại nước ta là một điều rất trầm trọng, mọi người đều sợ bị ngoại xâm xâm lăng
bằng văn hoá. Người ta không thích Cộng Sản, nhưng người ta cũng không thích
văn hoá Mỹ, nhất là không muốn lối sống Mỹ xâm nhập vào Việt Nam”.
Khi Phạm Duy được mời đi Mỹ theo Chương trình Trao đổi
Văn hoá, một số người nghĩ rằng ông đã bị mua chuộc. Ở Sài Gòn, người ta thường
quan niệm ai được Mỹ mời mọc, người đó phải chắc phải là “tay chân của Mỹ”. Ở Hà Nội cũng vậy, những người được đi Liên Xô
thì chắc chắn phải có liên hệ chặt chẽ sao đó chứ không thể nào có xuất dành
cho “phó thường dân”.
Khi đi Mỹ về, Phạm Duy mới bắt đầu viết tục ca. Ông
giãi bày: “Khi biết tôi soạn tục ca (chứ
không hề được nghe tôi hát tục ca) thì người ta có cái họ cho là sở đoản để tấn
công. Cũng có thể đây chỉ là hành động của những người ghen ghét về nghề nghiệp,
chưa chắc đã là do nơi những người làm chính trị chống Mỹ cứu nước”.
Đại
gia đình Phạm Duy
Thế nhưng, từ “vỉa
hè ca” bước sang “tục ca” vào những
năm 1967-1968 là một khoảng cách quá xa từ hình thức đến nội dung. Phải nói là
quá “xa lạ” với những ngôn ngữ tục
tĩu để chuyển tải một nội dung cũng không kém phần lạ lẫm.
Phạm Duy cho rằng “vỉa
hè ca” chỉ là những bài hát thông tục nhưng “tục ca” mới nói lên sự tức tối, giận dỗi để hét lên những tiếng chửi
rủa tục tằn. Tôi nghĩ, phàm những cái gì “thái
quá” cũng sẽ sinh “bất cập”.
Nguyễn Ngọc Chính
***
Chú
thích:
[1]
Xem tục ca của Phạm Duy được phổ biến trên YouTube qua 10 video clip do chính
tác giả trình bày. Nguyên bản của những clips này được chuyển thể từ băng
cassette được tác giả ghi âm với phần đệm guitar và hát nên trong video clips
chỉ thấy chạy những lời giới thiệu và ca từ (audio) chứ không có hình ảnh
(video).
Tục
ca số 1: Hát đối
Tục
ca số 2: Tình hôi
Tục
ca số 3: Gái lội qua khe
Tục
ca số 4: Úm ba la! Ba ta cùng khỏi!
Tục
ca số 5: Khỉ đột
Tục
ca số 6: Mạo hóa
Tục
ca số 7: Nhìn lồn
Tục
ca số 8: Em địt
Tục
ca số 9: Chửi đổng
Tục
ca số 10: Cầm cặc
[2]
Nghe Sức mấy mà buồn tại:
[3]
Nghe Nghèo mà không ham do ban nhạc Số Dzách trình bày tại:
BM:
10 Bài Tục Ca của Phạm Duy
Trong
suốt một đời, tôi chỉ muốn được nói thật nhiều về đất nước và con người Việt
Nam. Khi thì nói với ngôn ngữ ngợi ca và tả thực hay hiện thực như trong nhạc
kháng chiến. Khi thì nói một cách trừu tượng, siêu hình với ...
***
Mời xem thêm:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét