ĐI
TÌM ĐỊA DANH BÌNH TUY
Có đến hai mươi năm địa danh tỉnh Bình Tuy là một phần
đất rộng lớn phía tây nam của tỉnh Bình Thuận ngày nay. Dưới chế độ Việt Nam cộng
hoà, từ một sắc lệnh ký ngày 25.10.1956 tỉnh Bình Tuy được thành lập gồm một phần
đất của hai huyện Hàm Thuận,Tánh Linh và một phần đất của hai tỉnh Long Khánh,
Lâm Đồng cùng lúc với 22 tỉnh miền Nam. Đến năm 1976, khi thành lập tỉnh Thuận
Hải thì không còn nữa. Nhiều câu hỏi địa danh tỉnh mới này tại sao là Bình Tuy 平綏, mang ý nghĩa gì? Đối với Ngô Đình Diệm -
Tổng thống đệ nhất VNCH vốn là người được hấp thụ nhiều Tây học nhưng cũng chịu
ảnh hưởng nền giáo dục Nho giáo của gia đình, cho nên quyết định một tên tỉnh mới
phải có lý do nào đó.
Khi tỉnh Bình Tuy mới thành lập, tuy đặt tỉnh lỵ tại
La Gi nhưng chính quyền lúc đó lấy địa bàn vùng núi đang còn hoang sơ để hình
thành các khu dinh điền với quy mô đầu tư hạ tầng rất lớn, có cả dự án phi trường
tại quận Hoài Đức (Võ Đắc) và quy tụ cư dân các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi… từ
miền Trung đến đây lập nghiệp, lúc đó 2 quận Hoài Đức, Tánh Linh có dân số khoảng
40 ngàn người, xấp xỉ quận Hàm Tân. Các xã Võ Đắc, Vỏ Xu, Sùng Nhơn (Đức Linh)
và Nghị Đức, Huy Khiêm, Bắc Ruộng, Đồng Kho (Tánh Linh) ngày nay có từ thời kỳ
đó. Hơn ai hết, Ngô Đình Diệm từ năm 1929 dưới triều Nguyễn được bổ nhiệm làm
Tuần vũ Bình Thuận đã biết khá rõ về tiềm năng thiên nhiên của vùng đất này.
Sông Phan Camp - Quận Tánh Linh - Tỉnh Bình Tuy 1967.
Bởi trước đó, năm Tự Đức thứ 30 (1877) đã cử doanh điền sứ Nguyễn Thông đi khảo sát miền núi phía tây nam Bình Thuận. Qua “Nghỉ thỉnh thượng du đồn khẩn nghi sớ” càng thấy ở đây là một vùng đất trù phú, mênh mông rộng trên 3.000 mẫu, nằm cặp theo dòng sông La Ngà và các đầm, hồ lớn Biển Lạc, Đồng Kho… Đây là bản địa của người dân tộc S’tiêng, Chơ ro… cho nên các địa danh từ tiếng dân tộc chuyển sang chữ Hán Việt bị thay đổi khá nhiều. Khi mãi tìm nguồn gốc địa danh Bình Tuy thì may sao trong bài biểu về khai khẩn đồn điền, Nguyễn Thông có ghi “Thần Nguyễn Thông từ phía tây sông La Ngư xuôi xuống bờ sông phía bắc qua Bác Dã (Bắc Ruộng), bờ phía nam qua cửa Biển Lạc (Lạc Dã). Mé dưới là sông La Ngà. Còn mé thượng lưu thì qua Chu Lư, Ba Kế, Côn Hiên, Đại Đồng đến sông Thang, tiếp giáp với xã Cao Cương, tổng Bình Tuy thuộc hạt bên kia” (ý nói thuộc Đồng Nai Thượng). Như vậy địa danh Bình Tuy đã là một đơn vị hành chánh cấp “tổng” hồi đó. Liên hệ địa bạ tỉnh Biên Hoà, trước năm 1836, các thôn, sách Định Quát (sau là Định Quán), Cao Lang, Gia Canh, Thuận Tùng, Túc Trưng, Vĩnh An thuộc tổng Bình Tuy, huyện Phước Bình. Đến năm 1899, tổng Bình Tuy nhập vào tỉnh Đồng Nai Thượng. Điều này càng được xác lập rõ hơn ở bản đồ Province de Bình Thuận- năm 1910 (phần phía tây Tánh Linh và nam Đắc Lắc) có thể hiện địa danh Bình Tuy nằm bên bờ sông La Ngà thuộc tỉnh Bình Thuận.
Theo Đại nam nhất thống chí (Bình Thuận), năm Thành Thái 13 (1901) trích 2 tổng Cam Thang, Ngân Chử của huyện Tuy Lý đặt làm huyện này (tức Tánh Linh, trước đó là thôn Tấn Linh) để thuộc vào tỉnh Đồng Nai Thượng. Đến năm 1924, làng Định Quán vẫn còn thuộc tổng Bình Tuy, tỉnh Đồng Nai thượng. Xa hơn nữa, địa bàn tổng Bình Tuy nằm trong khu vực trung lưu sông Đồng Nai, nối với phía tây Bình Thuận, mũi núi cuối cùng của rặng Trường Sơn. Ở đó có cư dân Che Mạ vẫn còn ảnh hưởng đến lưu vực sông La Ngà, được coi là một nước nhỏ giữa hai nước Chiêm Thành và Chân Lạp. Cuối thế kỷ XVII, khi Chúa Nguyễn đã chiếm hết đất Chiêm Thành thì bộ lạc Thượng này cũng tan rã, phân tán thành những sách, thôn nhỏ.
Sông Phan Camp - Quận Tánh Linh - Tỉnh Bình Tuy 1967.
Bởi trước đó, năm Tự Đức thứ 30 (1877) đã cử doanh điền sứ Nguyễn Thông đi khảo sát miền núi phía tây nam Bình Thuận. Qua “Nghỉ thỉnh thượng du đồn khẩn nghi sớ” càng thấy ở đây là một vùng đất trù phú, mênh mông rộng trên 3.000 mẫu, nằm cặp theo dòng sông La Ngà và các đầm, hồ lớn Biển Lạc, Đồng Kho… Đây là bản địa của người dân tộc S’tiêng, Chơ ro… cho nên các địa danh từ tiếng dân tộc chuyển sang chữ Hán Việt bị thay đổi khá nhiều. Khi mãi tìm nguồn gốc địa danh Bình Tuy thì may sao trong bài biểu về khai khẩn đồn điền, Nguyễn Thông có ghi “Thần Nguyễn Thông từ phía tây sông La Ngư xuôi xuống bờ sông phía bắc qua Bác Dã (Bắc Ruộng), bờ phía nam qua cửa Biển Lạc (Lạc Dã). Mé dưới là sông La Ngà. Còn mé thượng lưu thì qua Chu Lư, Ba Kế, Côn Hiên, Đại Đồng đến sông Thang, tiếp giáp với xã Cao Cương, tổng Bình Tuy thuộc hạt bên kia” (ý nói thuộc Đồng Nai Thượng). Như vậy địa danh Bình Tuy đã là một đơn vị hành chánh cấp “tổng” hồi đó. Liên hệ địa bạ tỉnh Biên Hoà, trước năm 1836, các thôn, sách Định Quát (sau là Định Quán), Cao Lang, Gia Canh, Thuận Tùng, Túc Trưng, Vĩnh An thuộc tổng Bình Tuy, huyện Phước Bình. Đến năm 1899, tổng Bình Tuy nhập vào tỉnh Đồng Nai Thượng. Điều này càng được xác lập rõ hơn ở bản đồ Province de Bình Thuận- năm 1910 (phần phía tây Tánh Linh và nam Đắc Lắc) có thể hiện địa danh Bình Tuy nằm bên bờ sông La Ngà thuộc tỉnh Bình Thuận.
Sông
Dinh - Quận Hàm Tân - Tỉnh Bình Tuy 1970
Theo Đại nam nhất thống chí (Bình Thuận), năm Thành Thái 13 (1901) trích 2 tổng Cam Thang, Ngân Chử của huyện Tuy Lý đặt làm huyện này (tức Tánh Linh, trước đó là thôn Tấn Linh) để thuộc vào tỉnh Đồng Nai Thượng. Đến năm 1924, làng Định Quán vẫn còn thuộc tổng Bình Tuy, tỉnh Đồng Nai thượng. Xa hơn nữa, địa bàn tổng Bình Tuy nằm trong khu vực trung lưu sông Đồng Nai, nối với phía tây Bình Thuận, mũi núi cuối cùng của rặng Trường Sơn. Ở đó có cư dân Che Mạ vẫn còn ảnh hưởng đến lưu vực sông La Ngà, được coi là một nước nhỏ giữa hai nước Chiêm Thành và Chân Lạp. Cuối thế kỷ XVII, khi Chúa Nguyễn đã chiếm hết đất Chiêm Thành thì bộ lạc Thượng này cũng tan rã, phân tán thành những sách, thôn nhỏ.
Nói về tên gọi Bình Tuy đối với một vùng đất có ý
nghĩa yên bình cũng phù hợp nhưng để đặt tên cho một tỉnh thì địa danh Bình Tuy
có từ một tổng lâu đời nằm ở vị trí trung tâm tiềm năng thiên nhiên và mang tầm
chiến lược quốc phòng, trọng điểm kinh tế để phát triển là lý do để tổng thống
Ngô Đình Diệm chọn lựa.
Đến bây giờ vẫn còn một lớp người mang tên nơi chốn
chào đời trên giấy khai sinh của mình gắn với địa danh Bình Tuy và người xa xứ
ngày nào cũng còn mãi hoài niệm về Bình Tuy… một địa danh mang nhiều cung bậc
trong ký ức một thời.
Phan Chính
10 nhận xét:
Bài phân tích sâu sắc , hợp lý ,là " Tư liệu " quý . Cảm ơn Tác Giả.
Chưa thấy trả lời rõ " tại sao là Bình Tuy "
Tác giả Phan Chính (Chinh Phan) có nêu nguồn gốc tỉnh Bình Binh Tuy :
"Khi mãi tìm nguồn gốc địa danh Bình Tuy thì may sao trong bài biểu về khai khẩn đồn điền, Nguyễn Thông có ghi “Thần Nguyễn Thông từ phía tây sông La Ngư xuôi xuống bờ sông phía bắc qua Bác Dã (Bắc Ruộng), bờ phía nam qua cửa Biển Lạc (Lạc Dã). Mé dưới là sông La Ngà. Còn mé thượng lưu thì qua Chu Lư, Ba Kế, Côn Hiên, Đại Đồng đến sông Thang, tiếp giáp với xã Cao Cương, tổng Bình Tuy thuộc hạt bên kia” (ý nói thuộc Đồng Nai Thượng). Như vậy địa danh Bình Tuy đã là một đơn vị hành chánh cấp “tổng” hồi đó. Liên hệ địa bạ tỉnh Biên Hoà, trước năm 1836, các thôn, sách Định Quát (sau là Định Quán), Cao Lang, Gia Canh, Thuận Tùng, Túc Trưng, Vĩnh An thuộc tổng Bình Tuy, huyện Phước Bình"
Tuy nhiên, như bác Hoang Phung thắc mắc, tác giả bài viết Phan Chính (Chinh Phan) chưa giải thích câu hỏi do chính ông đặt ra: "Nhiều câu hỏi địa danh tỉnh mới này tại sao là Bình Tuy 平綏, mang ý nghĩa gì?"
Trong bài có đề cập rồi ạ!
Tác giả viết rõ thế còn gì: (câu cuối)
Tên Bình Tuy được chọn vì
+ đó là tên một tổng trung tâm ngon lành, nên lấy nó làm tên tỉnh mới luôn. (cái này như cách lấy tên một bài hát đặt tên cho cả album)
+ tên này nghe cũng hay (bình tuy = yên lành)
Cám ơn bạn đã đồng tình-bạn đã trả lời thay giùm tác gỉa và đúng như vậy!
Bài viết công, có ích. Cảm ơn
Tra từ điển Hán Việt, ta thấy BÌNH TUY có ý nghĩa:
BÌNH (平) :
1. Bằng phẳng. ◎Như: “thủy bình” 水平 nước phẳng, “địa bình” 地平 đất bằng.
2. Bằng nhau, ngang nhau. ◎Như: “bình đẳng” 平等 ngang hàng, “bình quân” 平均 đồng đều.
3. Yên ổn. ◎Như: “phong bình lãng tĩnh” 風平浪靜 gió yên sóng lặng.
4. Không có chiến tranh. ◎Như: “hòa bình” 和平, “thái bình” 太平.
5. Hòa hợp, điều hòa.
*
TUY (綏) có nhiều nghĩa, chọn nghĩa có liên quan:
TUY: bình định, yên định
*
BÌNH TUY (平 綏): An bằng, hoà hợp, trị yên.
Tác giả cám ơn La Thụy đã bổ sung, rất thuyết phục!
Đăng nhận xét