Lê
Đạt là một trong những nhân vật trụ cột của Phong trào Nhân văn - Giai phẩm. Về thơ, Lê Đạt tự nhận mình là
phu chữ, vì thơ ông viết rất kỹ tính, cẩn thận từng câu chữ, chọn lọc, suy nghĩ
và dằn vặt rất nhiều. Lê Đạt còn là một cây bút truyện ngắn “thứ dữ”. Cả đời
ông, dường như chỉ in hai tập truyện ngắn là “Hèn đại nhân” và “Mi là người
bình thường”.
Trong
lời mở đầu của tập truyện “Hèn đại nhân”, Lê Đạt dí dõm giới thiệu:
“Hầu
hết nhà văn Việt Nam đều biết Lê Đạt là một ‘người làm thơ già’. Hiếm hoi biết Lê
Đạt là một ‘người viết văn trẻ’. Truyện ngắn đầu tay của tôi ‘Bài haiku’ in
cùng một lúc trên tuần báo Tuổi trẻ Chủ nhật và Văn nghệ, được viết sau những
truyện của Hồ Anh Thái, nhà văn trẻ tuổi nhất được kết nạp hội viên vào dịp Trần
Dần và tôi tái hồi văn tịch. Vậy thì khi đề nghị độc giả đọc với thái độ chiếu
cố già và nâng đỡ cây bút trẻ liệu có thể xem là quá đáng hay dính chút ‘tham ô’
không”.
Mời quý bác đọc truyện ngắn “Hèn đại nhân”, truyện mở đầu và được mang tên chung cho cả tập truyện.
Mời quý bác đọc truyện ngắn “Hèn đại nhân”, truyện mở đầu và được mang tên chung cho cả tập truyện.
Nhà văn Lê Đạt (1929 – 2008)
“HÈN ĐẠI NHÂN”
Truyện ngắn của Lê Đạt
Trình
làng người dăm chữ ngụ cư
Chưa bao giờ Jăng thấy những biểu thức toán học thanh
nhã và đẹp đến thế. Anh bóp mười đầu ngón tay tê cứng rồi lại mải miết viết. Những
suy nghĩ như con nước đe dọa trào ra khỏi bình óc, nếu Jăng không giải phóng
chúng trên giấy. Anh chợt nhìn đồng hồ. Kim chỉ hai mươi giờ mười lăm. Jăng giật
mình. Anh đã quá hẹn với Mari mười lăm phút. Ôi, Mari em xinh đẹp thế… duyên
dáng thế… Mà sao khó hiểu… sao rắc rối hơn những phương trình toán phức rất nhiều.
Đang vui vẻ đang dịu dàng… bỗng em cau mặt… thế là dông tố nổi lên ầm ầm, có
khi đến cấp mười hai, mười ba. Và rồi giữa cơn cuồng nộ em bỗng ôm hôn anh… mắt
thăm thẳm… bình yên tuyệt vời. Có phải đó là điểm mà các nhà khí tượng gọi là mắt
bão? Đang hát, đang nhí nhảnh như một con chim ức đỏ, mặt em bỗng lạnh tanh dưới
không độ… và anh buồn như con hải mã mồ côi.
Những bước chân hối hả của Jăng trên hè đường như chậm
chạp một cách bất động. Anh vắt chân lên cổ chạy, nhiều lúc muốn đứt hơi trên
hè đường tuyết tan nhầy nhụa bùn.
Nhưng cuối cùng thì cũng tới Roma. Tiệm cà phê
Capitolơ đã hiện ra trước mắt rực rỡ. Jăng bước vào. Tấm gương lớn cho thấy
hình ảnh một người trẻ tuổi đầu tóc rũ rượi, áo quần nhàu nát, lấm bùn, bệ rạc
như một tên ma cà bông. Chỉ có đôi kính long lanh là còn giữ được một phần nào
tư thế cho bộ mặt có vầng trán thênh thang như phòng đọc một thư viện quốc gia.
Và kề bên là hình ảnh Mari hồng hào, ngon như một chiếc kẹo nuga. Jăng nuốt nước
bọt. Nhưng nước bọt tắc nghẽn ở cổ họng. Bên cạnh Mari là một viên sĩ quan cỡ
trung hay đại úy, quần áo phẳng phiu, khuy cúc, lon sao mạ bóng loáng, mặt mày
nhẵn nhụi như vừa ở tiệm hớt tóc ra, với bộ ria đế chế oai hùng màu hung hung đỏ
hai đầu xoăn tít như dây mayso. Bao nhiêu giấc mơ thiếu nữ đã thiêu rụi ở đó
như những cánh bướm ngũ sắc. Và con số những tình tích chắc chắn còn nhiều hơn
những chiến tích trong cuộc đời binh nghiệp của viên sĩ quan trẻ tuổi thời bình
kia. Jăng tin là Mari đã nhìn thấy mình. Nhưng nét mặt cô thản nhiên như không
có chuyện gì xảy ra.
Jăng bây giờ mới thấm mệt. Anh muốn ngồi bệt xuống
sàn. Cố gắng lắm anh mới lê lết… tới… được một bàn trống. Khoảng cách vô tận…
như khoảng cách Zênông [2]. Anh uống một lúc hai ly đen. Đôi ria mép viên sĩ
quan nhảy múa trong một điệu mơnuyê trịnh trọng. Cà phê đắng như có vị thạch
tín. Và rực rỡ giữa vùng cà phê đen là chiếc nơ đỏ trên đầu Mari bay… lượn… bay
lượn. Với tiếng cười rúc rích. Tan-ta-ran-tan-tan.
– Vous avez une
très belle moustache [3].
Jăng bỗng thấy dâng lên cơn thịnh nộ không sao kìm hãm
nổi. Cơn thịnh nộ làm anh choáng váng. Anh lảo đảo đi về phía Mari mặt bừng bừng.
– Mari! Tôi
không muốn…
Mari quay về phía anh, mặt lạnh tanh:
– Ông muốn gì?…
Quá lắm, quá lắm! Cơn giận trong người Jăng sôi lên vượt
ngưỡng báo động, đe dọa nổ tung cái vỏ não mỏng mảnh, nếu không mở một xúpáp an
toàn. Người trẻ tuổi bật nói, không cưỡng lại được:
– Pute (3)…
Viên sĩ quan đứng dậy đẩy Jăng ra.
– Ngài có hành
vi thiếu lễ độ với phụ nữ.
Jăng túm lấy ngực áo hắn.
– Cả mày nữa,
mày cũng là một tên vô lại.
Viên sĩ quan đẩy mạnh một cái làm Jăng ngã chổng kềnh,
chiếc kính rơi xuống đất. Hắn lấy ngón tay búng ngực áo rồi vuốt nhẹ cho phẳng
phiu, giọng vẫn ung dung:
– Tay ngài hơi
thiếu vệ sinh
Và hắn nghiêng đầu trước Mari nói:
– Xin lỗi tôi đã
không làm tròn bổn phận kẻ vệ sĩ của người đẹp.
Jăng sờ soạng nhặt kính. Như trong một giấc mơ, anh chập
chờn đến trước mặt viên sĩ quan:
– Thằng khốn nạn,
mày có dám quyết đấu với tao không?
Viên sĩ quan cười lớn:
– Nhưng ngài có
biết nạp đạn vào súng không?
Câu nói như một viên đá quẳng xuống mặt hồ làm tóe những
sóng cười.
Mari đứng dậy nắm tay viên sĩ quan:
– Ta đi thôi.
Jăng hét to:
– Mày chưa đi được
trước khi nhận lời quyết đấu với tao!
Viên sĩ quan lịch sự cúi đầu:
– Tôi sẵn sàng
phục vụ ngài.
Một cuộc quyết đấu được thỏa thuận trong vòng hai mươi
ngày tại phía bắc rừng Boulognơ.
Hai mươi ngày… Hai mươi ngày… Liệu kỳ hạn ác nghiệt
này có đủ cho Jăng hoàn thành công trình không? Giờ đây thì cả Mari cả viên sĩ
quan mạ kền, cả trận quyết đấu kia cũng đã lui vào hậu trường, trước mắt chỉ có
những phương trình mọc lên tua tủa như rừng. Rồi chúng sẽ dẫn dắt Jăng đi đến
đâu? Đó là một ẩn số. Một người nghiên cứu đích thực cũng như một nghệ sĩ, hình
như ít thấy trước được điểm chấm hết của công trình đang tiến hành. Con đường
xuất hiện đồng thời với bước chân lấn cõi chưa biết. Đó là một cuộc Gullivơ du
ký đầy bất ngờ của trí tuệ, và thường khi mình định tâm tìm một vương quốc Ấn Độ
huyền ảo… thần may rủi mù lòa lại đưa đến một Tân thế giới. Jăng viết rất nhiều,
xóa cũng rất nhiều. Anh có cảm giác mình sắp phát hiện ra một điều gì cực kỳ mới
lạ. Ai biết được mặt mũi cái mới lạ ra sao. Jăng chỉ linh cảm thấy mình không
còn dừng lại ở những định thức toán rời rạc riêng lẻ địa phương mà đang xây dựng
một cấu trúc toán đồ sộ lợi hại, nó mở rộng một lục địa toán mênh mông. Jăng
làm việc ngày, làm việc đêm, mặt hốc hác, râu mọc tua tủa, hai gò má nhô cao,
đôi con ngươi cháy long lanh như một kẻ bị ma ám trong hốc mắt ngày một hõm
sâu. Một hôm bất thần soi mặt vào gương Jăng bỗng giật mình thấy mặt một Đấng cứu
thế của Van Dyck mà anh đã được gặp tại Viện bảo tàng Louvrơ cách đó vài tháng.
Mới có nửa năm, nửa năm mà xa lắc xa lơ. Hình như anh đang sống một hệ thời
gian khác.
Pie, người làm chứng trong cuộc quyết đấu, hơn một lần
đến vật nài anh nghỉ ít bữa để tập bắn.
– Cậu không nên
coi đây là chuyện đùa. Cái viên sĩ quan nộm kia hẳn là đánh giặc rất tồi, nhưng
bắn tập thì rất khá, vì bắn cũng là một trò chưng diện chim gái của hắn.
– Viên sĩ quan
nào?
Phải một lúc lâu, Jăng mới nhớ được là mình đã hẹn quyết
đấu với một người.
Nhưng những cái đó đối với Jăng bây giờ là vô nghĩa, cả
cái sống, cái chết của anh cũng vậy. Anh chỉ nhớ rằng hai mươi hôm nữa anh sẽ
có thể vĩnh viễn ra đi và thời gian này anh phải dành ra để hoàn thành một công
trình còn quý hơn tính mạng.
Những lời vật nài, kể cả nguyền rủa của bạn như đều
thuộc một thế giới ảo.
Cuộc chạy thi với thời gian thật vất vả, nhiều phần
Jăng đành viết tóm tắt mà không kịp phát triển. Hậu thế hãy tha thứ cho người vận
động viên nước rút oan nghiệt này.
Anh vừa gấp tập bản thảo lại cũng là lúc Pie đến gọi
anh đi quyết đấu. Anh lặng lẽ bỏ súng vào túi đi theo Pie lên xe như một kẻ mộng
du.
Tiếng vó ngựa gõ xuống mặt đường đều đều. Bỗng Jăng ra
hiệu ngừng xe. Anh nói với Pie:
– Mình phải quay
về cậu ạ.
– Sao cậu sợ?
– Sợ gì?
Pie bực mình:
– Sợ chết chứ
còn sợ gì? Mình không ngờ cậu lại hèn thế!
Jăng cũng chẳng để ý đến lời xúc phạm của bạn:
– Mình vừa chợt
nghĩ ra một cách phát triển thanh nhã và đẹp hơn nhiều. Tớ phải về. Thế nào tớ
cũng phải về.
Pie cản lại:
– Cậu có thể
hèn, nhưng tớ không thể hèn được. Ta cứ đến nơi hẹn. Nếu cậu sợ, tớ sẽ thay cậu…
– Đã bảo mình
không sợ mà.
Phép lôgic nào có thể giúp cho anh chứng minh được rằng
mình không sợ? Jăng đành thụ động theo bánh xe ngựa số mệnh.
Khi hai người tới điểm hẹn, viên sĩ quan đã đứng đó
cùng với Mari. Tiếng cười của Mari như một gáo nước lạnh làm cho Jăng bừng tỉnh.
Anh thấy mình không thể hủy cuộc quyết đấu được. Hai người đứng vào vị trí đã định.
Trước khi hiệu lệnh bắt đầu, Jăng bỗng cho súng vào túi. Anh lặng lẽ tiến đến
trước viên sĩ quan, giọng hết sức điềm tĩnh. Anh cảm thấy như mình là một người
khác.
– Thưa ông, tôi
có một việc tối hệ trọng cần phải hoàn thành, xin ông cho hủy cuộc đấu.
Viên sĩ quan vê ria mép, hơi ngạc nhiên, nhưng vẫn cố
giữ vẻ lịch sự rất thế kỷ mười bảy đọc trong sách của Duyma.
– Tôi sẵn sàng hủy
bỏ cuộc quyết đấu với điều kiện ngài phải xin lỗi cô nương đây.
Như một cái máy, Jăng đến trước mặt Mari cúi đầu:
– Tôi thành thực
xin lỗi cô nương.
Mari lẩm bẩm:
– Lâche! [4]
Và cô nhón đầu ngón chân quay hai góc vuông, khoác tay
viên sĩ quan bỏ đi, vứt lại một chuỗi cười.
Những biến động lớn của cảnh ngộ đã làm cho tâm thần
Jăng tê dại. Anh gần như sống trong một trạng thái cơ học. Viên sĩ quan có thể
bắt Jăng quỳ xuống. Jăng cũng quỳ không chút do dự – Nhưng tiếng cười ma quỷ
kia, nó như một chiếc vít vô tận khoan sâu đến tận đáy vô thức, một tia xung điện
đánh vào chiếc hộp sọ đã quá tải. Jăng lấy hai tay bịt tai, và ngã lăn bất tỉnh.
***
Toán học đã cứu anh. Những phương trình toán tuyệt đẹp
hình như đã nâng anh lên một thượng tầng không khí, nơi những ỉ eo của cuộc đời
không tới được. Ôi khoảng không toán học bao la nơi những con số kỳ ngộ tạo nên
những phương trình tuyệt vời như nàng công chúa trong rừng cổ tích.
***
Jăng có một thầy dạy toán lừng lẫy tên là Rơnê, mớ tóc
bạc trắng như bọt biển lăn tăn với chiếc mũi sư tử, tạo cho ông một dáng suy tư
tự nhiên, kể cả khi ông không nghĩ gì cả. Nó đã góp một phần không nhỏ vào uy
tín của bậc trí giả.
Công trình Jăng gửi xin ý kiến, mấy trang đầu làm ông
khó chịu vì những khái niệm kỳ quặc mấp mé sự điên rồ, nhưng càng đọc ông càng
say mê. Nhiều chỗ ông không hiểu, nhưng cái khứu giác lâu năm trong nghề khiến
ông đánh hơi thấy hình như mình đang đứng trước những phát hiện hết sức lớn
lao.
Một người điềm tĩnh như ông mà đêm đó cũng phải dùng đến
ba viên gacdinan mà vẫn trằn trọc.
Như người ta nói, đêm là một cố vấn tốt. Hôm sau, ông
cho gọi Jăng đến. Giọng ông chậm rãi cân nhắc:
– Tôi đã xem
công trình của anh. Có một số ý kiến độc đáo… Nhưng chưa được vững vàng, cần phải
hoàn chỉnh thêm.
Rồi ông im lặng. Vầng trán đồ sộ nhíu lại. Mấy lần ông
định nói, nhưng lại im. Cuối cùng rồi ông cũng nói:
– Tôi sợ một
công trình như thế này công bố dưới tên anh sẽ gây phản ứng tiêu cực trong giới
toán học, không có lợi cho tác giả. Vì anh còn non trẻ quá…
Ông lấy khăn lau mồ hôi trán:
– Nếu anh bằng
lòng… tôi sẽ chỉnh lý, nâng cao và cùng đứng tên với anh…
Nét mặt cũng như cách nói của ông có vẻ đầy thiện ý.
Nhưng Jăng đang ở trong một thời kỳ khủng hoảng lớn về tinh thần. Anh đùng đùng
đứng dậy vơ lấy tập bản thảo và lắp bắp:
– Tôi không phải
là một thằng ăn cắp!
Và bỏ đi như một sự khinh bỉ.
Jăng không hiểu rằng anh đã dấn thân vào một trận quyết
đấu mới với một địch thủ còn thập phần nguy hiểm hơn viên sĩ quan bợm gái.
Một nguồn tin không biết ở đâu nhanh chóng được phát
đi về hành động đáng xấu hổ của “thằng
hèn đến giờ đọ súng bỗng thun vòi lại”. Người ta còn bổ sung rất nhiều chi
tiết hấp dẫn, nào là Jăng “quẫn ra bình”
[5] nào là Jăng quỳ mọp xuống đất hôn mũi giày địch thủ để xin tha mạng, vân
vân…
Tin đó chỉ một vài ngày đã lan khắp giới khoa học, như
một phản ứng dây chuyền. Người ta xì xào. Có lẽ nhục quá nó hóa điên. Chẳng
điên mà đi chửi lại thầy khi ông thân ái góp ý đối với những trò rồ dại của hắn
về một “tân toán ngữ”. Đúng là một thằng
khốn kiếp. Cũng may, thầy Rơnê là người độ lượng. Jăng như con cá mắc trong tấm
lưới, càng quẫy càng tróc vẩy, chảy máu, càng bị thít chặt…
Và anh bắt đầu nếm thứ hình phạt kinh khủng nhất trần
gian: sự ruồng bỏ của đồng loại.
Các bạn anh gặp ngoài đường đều quay đi, đổi vỉa hè,
hoặc chăm chú gí mũi vào tủ kính một tiệm tạp phẩm.
Trong những bản năng của loài người, day dứt nhất là bản
năng bầy đàn. Cho nên trong các quần thể từ thời nguyên thủy, hình phạt nặng nhất
sau án tử hình là sự tống khứ ra khỏi cộng đồng, được gọi bằng những định danh
khác nhau như rút phép thông công, khai trừ, lưu đày…
Một người không thể sống suốt ngày với những con số.
Người ta thèm hơi ấm của sự chia sẻ, thậm chí từ bất cứ một loại sinh vật nào.
Jăng cô đơn đến mức không có cả một con chó làm bạn
vào những lúc tàn canh. Cây thánh giá lạnh.
Cho đến một hôm người hàng xóm nghe thấy một tiếng nổ.
Khi cảnh sát đạp cửa vào thì đã thấy Jăng ngã gục trong vũng máu, quả tim rách
bươm còn khét mùi thuốc súng. Jăng đã chết vì chính khẩu súng anh chuẩn bị cho
trận quyết đấu không diễn ra.
Vì anh tứ cố vô thân, ông Rơnê đứng lên lo liệu mọi việc
ma chay cho tên học trò bội bạc. Tất cả sách vở, bản thảo của Jăng được nhà chức
trách trao lại cho ông thầy tốt bụng.
Sau khi chôn cất tươm tất cho người trẻ tuổi, Rơnê lên
xe phóng vội về nhà.
Ông chốt cửa phòng làm việc lại. Di cảo của kẻ bất hạnh
được lục lọi, xem xét với mức soi mói của sở mật thám, nhưng bản thảo cần tìm
không biết bằng cách nào đã tẩu thoát!
***
Habent
sua fata libelli.
Sách
vở cũng số phận.
Lần nào đọc câu thơ trên của Terentianus Maurus tôi
cũng rùng mình. Tác giả của nó là một nhà thơ mắn đẻ. Ông đã viết rất nhiều tác
phẩm nổi tiếng một thời và chắc chắn tên tuổi ông từ lâu đã bị quẳng vào bãi phế
thải mênh mông của lịch sử nếu không có câu thơ quái ác kia, nó như một chiếc
đĩa bay chở ông qua hữu hạn đến những vùng biên ngoại vô tận của thi ca nhân loại.
Tôi xin lấy nó làm kết từ cho truyện ngắn này.
Một hôm nhà bác học Do Thái Anbe Anhxtanh tình cờ đi dạo
trên ke Malake, nghĩa trang sách quen thuộc của đủ loại tình nhân thư tịch
không riêng Pari mà cả thế giới. Hồi này, nhà vật lý đang bận tâm vì những con
toán hóc búa cho lý thuyết trường thống nhất. Tại một quầy sách bụi bặm, ông bỗng
chú ý tới một bản thảo vì bút danh kỳ cục của tác giả ghi trên mặt bìa đã ố
vàng: Le Lâche [6].
Tiêu đề của bản thảo cũng không kém phần trêu ngươi:
Bàn về toán hóa vũ trụ. Giá sách lại quá rẻ: chưa bằng một kilô bánh mì.
Ngay từ mấy trang đầu, bản thảo đã khiến Anhxtanh ngạc
nhiên. Một người như ông kể cũng không dễ ngạc nhiên! Và càng đọc, nhà vật lý
như càng bị thu hút bởi lực từ trường của những “sự thật quá thật đến mức người ta tưởng là điên rồ”. Trong bản thảo
viết vội ông thấy nhiều vỉa đề xuất có trữ lượng lớn, đủ để các nhà khoa học khai
thác trong nhiều năm.
Tuy không biết rõ tiểu sử tác giả, nhưng với trực giác
của một nghệ sĩ nòi Anhxtanh linh cảm một nỗi khổ nạn bao la phía sau định danh
Le Lâche.
Không đành lòng với biệt danh Thằng Hèn khi cho công bố
công trình kiệt xuất trên, cũng không tìm được tên cúng cơm của tác giả, vị cha
đẻ của thuyết tương đối nghĩ được một cách giải quyết khá đẹp. Chính tay ông nắn
nót viết lên bìa bằng chữ hoa:
LÂCHE
LE GRAND
HÈN
ĐẠI NHÂN
Lê Đạt
Chú
thích:
[1]
Toán học, trong Pháp ngữ, là từ giống cái.
[2]
Triết gia Hy Lạp phủ nhận tính chuyển động.
[3]
Anh có một bộ ria tuyệt vời.
(3)
Con điếm
[4]
Đồ hèn
[5]
Lược dịch lời nói có kèm điệu bộ: “Il fait dans le pantalon”.
[6]
Thằng khốn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét