Nhà thơ Trần Tuấn Kiệt
Nhà thơ Trần Thiện Hiệp
TRẦM
TƯ VỀ THƠ TRẦN THIỆN HIỆP
Trần Tuấn Kiệt
Ở hải ngoại Trần Thiện Hiệp là một thi sĩ có tầm vóc lớn.
Khi về thăm lai quê hương năm 2001, ông đã giao cho nhà xuất bản Trẻ ấn hành tập
thơ lấy tên mình – Thơ Trần Thiện Hiệp – gồm 100 bài thơ chọn lọc trong số thơ
ông đã xuất bản từ lâu ở Hoa Kỳ, Canada. Xuyên qua thơ ông sáng tác từ bàn viết
tạm dung trong suốt thời gian dài gần 30 năm, ta có thể nói Trần Thiện Hiệp là
một thi sĩ sống đầy đam mê và thủy chung với sự nghiệp thi ca. Với một bút pháp
thâm hậu, nhà thơ họ Trần đưa người đọc vào thế giới tinh thần của mình bằng những
vần thơ ý tưởng mới mẻ, suy nghiệm sâu sắc về thân phận con người trong cõi
mênh mông vô thường.
Thơ Trần Thiện Hiệp cao nhã, sâu xa, có nhiều kỳ tứ đượm
phong vị thiền, triết, và đặc biệt đầy nhạc tính, giúp cho thơ ông bay bổng và
hấp dẫn khách yêu thơ. Đôi khi tiếng thơ Trần Thiện Hiệp cũng có những bước nghịch
hành của người cô lữ luôn hoài vọng về quê hương cố quận. Đôi khi lại rất trữ
tình như thơ của thi sĩ Nguyễn Hoàng Quân xưa kia:
Em
bước trong thơ
Em
đùa trên sóng
Em
du mình trên khắp nẻo kinh thành...
Với Trần Thiện Hiệp thì:
Em
tượng thời thiên cổ
Xiêm
y một vầng trăng
Thơ
ta mềm dải lụa
Đón
em về hoa đăng
Hay là:
Khi
về chải tóc em nghiêng
Nghe
hồn chợt ấm giữa miền long đong
Hiên
trưa lá biếc như lòng
Ta
như bướm nắng lạc dòng tóc phơi
Khiến ta cũng nhớ đến thơ của Tất Nại Am “Chuyện đời một
nửa vô cùng vô biên”, đó là đôi câu tuyệt bút sau đây của Trần Thiện Hiệp:
Phù
du còn lại nửa đời
Vẫn
chân bám đất vẫn trời vô biên
Cõi đời đạt lý, huyền nhiệm khôn cùng thì cái chân hạnh
phúc là đâu, Trần Thiện Hiệp trả lời:
Hạnh
phúc là suối mát cỏ hoa
Vâng, bởi vì có nó người ta mới có được ánh sáng của tạo
vật, soi rọi từng bước đi qua nẻo đường trần:
Tôi
yêu con đường hồng trần
Và
yêu em bốn mùa tóc xõa gió bay
Cùng
mặt trời mặt trăng
Sương
mỏng mây thưa
Hương
trầm ân ái
Dù cho mai sau có mở ra địa ngục thì hôm nay chân hạnh
phúc đã tạo hồng ân cho chính bản thân mình hưởng được vô tận cái giờ phút mầu
nhiệm, đã uống cạn ngọn nguồn của cõi hồng trần đầy ánh sáng trăng sao và lạc
thú ân ái “bốn mùa tóc xõa gió bay”. “Có
bóng em và tôi quyện vào nhau bằng sợi tóc mềm đượm nồng kỷ niệm”. Sợi tóc
mềm huyền diệu quá khiến cho ta nhớ đến “Sợi
tóc trăm năm” của một danh tài họa sĩ vừa tạ thế: đó là anh Nghiêu Đề của
chúng ta! Đọc thơ Trần Thiện Hiệp lại hiện ra họa của Nghiêu Đề, của Nguyễn
Trung và nhạc của Phạm Đình Chương, của Trầm Tử Thiêng sao mà có nhiều âm hưởng
đến thế!
Trần Thiện Hiệp cứ trầm tư và truy vấn càn khôn như
Bùi Giáng, Trang Chu – mở tâm tình dâng hiến của mình với thiên nhiên sự vật,
trăng, em với hoa, hay quanh quẩn với “Đường non hoàng thảo nở” như Lưu Trần,
Nguyễn Triệu đã dấn thân lên cõi vô cùng:
Hoa
lưu động chủ ưng trường tại
Thủy
đáo nhân gian định bất hồi
Trần Thiện Hiệp đã hạ những câu truy vấn thật lạ lẫm,
thật thơ mà sâu sắc:
Nghiêng-đời-nửa-bóng
tìm ta mãi
Truy
vấn càn khôn một nỗi mình
(Nhật Thực)
Đêm
vây tôi giữa trùng trùng
Tôi
vây tôi giữa vô cùng hoài nghi
Lượng
đời bàng bạc tà huy
Núi
nghiêng bóng núi mãi truy vấn mình
(Bóng Núi Tà Huy)
Tinh thần của Đức Phật cứ như hoa nở trên trang thơ Trần
Thiện Hiệp, những trầm tư về kiếp người, về dòng thời gian vô tận, về những “Rừng
kia thay màu lá, những đời trăng nối Xuân Hạ vào Thu”, thật tiếng thơ lạ lùng
bí ẩn và nhiếp hồn ta biết bao nhiêu. Thơ chợt ẩn chợt hiện, chợt “Thấy em mây
ngàn năm trên tóc”, rồi lại “Mây tan hóa đời mây” cơ hồ như Chu Mạnh Trinh vịnh
Kiều vẽ hình Kim Trọng và Kiều Nương:
Dưới
hoa khép mặt gương lồng bóng
Ngàn
liễu rung cương sóng gợn tình
Thơ hay là ở chỗ xuất thần, khi như hình ảnh “giao
long hiện giữa trời, khi như kình ngạc nép vi miền Bắc Hải” đó mới là nét thần
diệu của thơ – Đễ cuối cùng ánh sáng đạo thể lại xuất hiện trong bài “Thơ Ở Buổi
Sáng Trên Đồi”:
Từng
bước chậm lên đồi nghe gió hát
Gặp
mặt trời đỏ rực ở trên vai
Ta
nghĩ đến kẻ thiền sư tìm đạo
Đạo
vô bờ giữa trần thế chông gai
...
Cõi
sinh diệt đời đời thơ lồng lộng
Nhật
nguyệt tròn-vòng-nối khúc thiên ca
Kẻ
thiền sư tìm chân nguyên đường ngộ
Ta
tìm nguồn thiện mỹ giữa muôn hoa
Đọc lên như một bản đạo ca hợp xướng theo “Từng bước
chậm lên đồi nghe gió hát, Gặp mặt trời đỏ rực ở trên vai”, nó gợi ta nhớ đến một
bài thơ lớn của người xưa “Một gánh kiền khôn quảy tếch ngàn” của Trần Khánh
Dư, hay Mặt Trời của Đinh Hùng:
Ta
ung dung đi trở lại núi rừng
Một
mặt trời đỏ rực hiện sau lưng
Thời đại chúng ta còn có nhiều màu sắc của Mặt Trời vẽ
lên bức tranh siêu thực của thế kỷ lầm than, như Trần Dạ Từ có câu:
Mặt
Trời Đen lăn xuống đường rầy khô
Còn Bùi Giáng sau những tang thương vô tận, những sinh
diệt, suy tư như Trần Thiện Hiệp, Bùi Giáng gởi gấm vào nàng thơ:
Em
bảo rằng đừng tuyệt vọng nghe không
Còn
trang thơ thắm lại với trời hồng
Cõi trần thế vô thường, Đạo đã mở ra vô bờ bến trước mọi
thảm họa nghiệt ngã. Trần Thiện Hiệp đã tìm về lẻ Đạo để đạt tới cõi thanh tịnh
vô vi chăng? Hay để giữ cho thân tâm mình được an bình giữa “trần thế chông
gai” này! Đốn ngộ chân lý không có nghĩa chỉ có đạo, hay các nhà tôn giáo. Đốn
ngộ chân lý của nhà thơ thì “Ta tìm nguồn thiện mỹ giữa muôn hoa” và chân lý hằng
cửu, và cuộc đời trên mọi thay đổi bể dâu, Trần Thiện Hiệp chỉ biết mình là một
nhà thơ đầy tình yêu với đời, với người yêu, với quê hương từ tấm lòng tha thiết
– Đó là một nguồn sống cao cả vừa huyền diệu nhất mà thi sĩ đã cảm nhận ra điều
ấy. Điều mà người làm thơ đạt tới cõi mầu nhiệm vừa của đạo thể, vừa của một đời
sống chân tình của thi nhân:
Nếu
như có một kiếp sau
Tôi
lại mong được làm thi sĩ
Vì như có người đã nói “Thi sĩ là người xây dựng lên tất cả! Thơ đạt tinh thể của nó. Là cõi bất
diệt của Đạo”. Thi sĩ là một con chim lạ trong cõi đời này. Hót lên những
giọng “âm vàng gió bay”, nhưng mà cõi
đời thì lắm chông gai, đôi khi lại bao nhiêu điều ngộ nhận, tai ác khiến con
chim lạ đó phải hót lên những điệu máu xương giữa đời. Tiếng thơ đã bù đắp cho
Trần Thiện Hiệp những điều mà nhà thơ thiếu vắng:
Em
về cho gót chân son
Cho
môi hạt lựu, cho tròn vòng tay
Bây giờ thì:
Bây
giờ trôi dạt nơi đây
Nhìn
thu lá đổ lòng đầy nỗi ta
Nỗi
ta trôi với nỗi nhà
Nỗi
non nước ấy đã xa nghìn trùng
Những nhịp điệu lập đi lập lại nỗi ta, nỗi nhà, nỗi
non nước ấy gợi cho lòng người dấy lên một nỗi buồn căm, một sự cô độc của một
người tha hương đi khắp nơi, càng ngày càng thấy xa xăm biền biệt về cội nguồn,
về đất nước. Ngày nào Tản Đà trầm buồn viết “Nước
đi ra bề lại mưa về nguồn”, còn bây giờ với Trần Thiện Hiệp “Nỗi ta, nỗi nhà, nỗi non nước ấy...” gần
như một thứ vong thân đau đớn nhất của một người Việt hải ngoại không bao giơ
quên quê hương đất nước. Tiếng thơ quê hương của Trần Thiện Hiệp đã nói lên nỗi
cay đắng của một người làm thơ hoài vọng cố hương trong từng hơi thở. Ta hãy lắng
nghe tiếng lòng của nhà thơ họ Trần trong bài “Chào Paris” đễ cùng chia xẻ:
Chào
Paris
Chào
đồng hương cùng tôi luân lạc
Vẫn
một tấm lòng ở với quê hương
Vẫn
dành trọn tình thương cho quê mình nghèo
Bên
kia bờ đại hải
Và bài “Người
Lính Già” thì lắng sâu niềm chua xót dài giằng dặt theo bước chân nhà thơ:
Hai
mươi lăm năm dài hai thế kỷ
Xa
cội nguôn sét rỉ mộng đời trai
Người
lính già còn nặng trên vai
Nguyên
khối tình sông núi
Trong bài “Trên
Đồi Gió” nỗi buồn nhớ quê của nhà thơ cũng đầy ngậm ngùi mà rất đẹp, rất
thơ:
Ngồi
với chiều nay ngang đỉnh gió
Ta
mong nắng gọi bước em về
Ngâm
bài thơ cổ ngàn xưa ấy
Thấy
nỗi nghìn trùng ta nhớ quê
“Bước
chân vô định biết đâu là nhà...kể từ lạc bước bước ra”
ôi Nguyễn Du! Sao thơ của người xưa lại buồn đến thế. Người xưa và người đời
nay quả là chịu một kiếp nạn “Cổ kim hận
sự thiên nan vấn” vậy!
Nhưng Trần Thiện Hiệp còn có thơ, còn có nàng thơ,
chưa đến nỗi phải tuyệt vọng! Điều đó thật đơn giản nhưng mà hiếm lắm thay!
Tóc
em bạc sợi thủy chung
Nỗi
ta tóc ấy xin cùng có nhau
Đó là hạnh phúc, là cội nguồn, là hồng ân của tạo hóa
ban tặng cho nhà thơ! Có ai đi suốt cuộc đời, đến sự thất bại cuối cùng của kiếp
người mới hiểu thấu được cái nghĩa thâm sâu của “Tóc em bạc sợi thủy chung” đó. Đó là sự viên mãn mà cụ Khổng Tử đã
bao lần nhắc đến. Khổng Tử nói về Đạo, Trần Thiện Hiệp nói về Thơ. Tuy có khác
nhau, nhưng “nhất dĩ quán chi” cả vậy.
Đôi lần ta nghe Trần Thiện Hiệp nói về sự phù du của kiếp người:
Nghe
trong vần chuyển đất trời
Có
tôi hạt bụi giữa đời phù du
Tuy là phù du mà thực sự là một sự hiện hữu có sự đóng
góp tiếng nói – tiếng thơ của mình giữa vũ trụ vô biên, giữa hồng trần đau khổ,
thì sự hiện hữu đó đã tạo ra giá trị của một con người dấn thân vào lịch sử vậy.
Bài “Rừng Trăng” dưới đây của nhà thơ
họ Trần thì giá trị nghệ thuật đã thành tuyệt bút ngang với bài Ông Lão Ngồi Câu Tuyết của Liễu Tông
Nguyên:
Giang
Tuyết
Thiên
sơn điểu phi tuyệt
Vạn
kính nhân tung diệt
Cô
chu thoa Lạp ông
Độc
điếu hàn giang tuyết
Dịch:
Ngàn
ngọn núi chim bay đi hết
Muôn
con đường mất vết chân người
Ông
già nón lá, áo tơi
Đậu
thuyền sông tuyết, riêng ngồi buông câu
Và “Rừng Trăng”
của Trần Thiện Hiệp thì:
Vũng
nước đóng băng. Trăng chết lạnh
Vũng
hồn trăng lạnh cũng thành băng
Chợt
đâu tiếng sói gào trăng muộn
Vang
dội rừng sâu. Động cánh bằng
Bài thơ đẹp quá, đã xóa nhòa cả cái lạnh của sự vật, của
tâm hồn băng giá và bất chợt nó hóa thân từ thi ngữ ra tiếng sói gào trăng. Động
cánh bằng! Đó là cái lý đẹp cuả thơ Việt hiện tại.
“Những
Con Đường Không Quên” từ những nẻo đường xa xứ gợi nhớ lại càng
nồng, càng tha thiết, càng trắc ẩn và đau thương của nhà thơ:
Con
đường khuya em khóc
Hạt
lệ mềm trên tay
Ngày
chia lìa Tổ Quốc
Lời
nào cho đắng cay
Con
đường từ luân lạc
Hai
mươi năm tàn phai
Sầu
sóng dâng Đông Hải
Đêm
nghe gió thở dài...
Bài “Về Nhánh
Sông Gầy Soi Bóng Ta” dường như tiếp nối nhịp đi của bài “Những Con Đường Không Quên”, nó gợi nhớ
âm thầm não buồn với:
Tiếng
sáo người xưa đêm giã biệt
Chừng
đâu còn đọng giọt âm vang
Trần Thiện Hiệp đã mượn rượu để ru nỗi khắc khoải của
đời mình, làm cho người đọc cùng cảnh ngộ dễ chia xẻ và cảm thông sâu sắc cái
tâm cảnh xa quê rất thơ, rất nhân bản trong thơ ông:
Tí
tách tàn bay
Tan
vào bóng tối
Rượu
thấm men cay
Quên
đời trôi nổi
Hoặc:
Rượu
cạn tưởng rồi quên nỗi nhớ
Hai
mươi năm cũ, mới ngày qu
Đã
đi mòn gót đường thiên hạ
Về
nhánh sông gầy soi bóng ta
Và hãy đọc:
Ru
em thơ cổ ngọt nào
Ru
ta mượn chén ba đào rượu cay
Uống rượu để tiêu tan cái sầu vạn cổ như Lý Bạch, uống
rượu để say vì phiêu bạt giang hồ bốn phương, vì quá cô độc một kiếp người –
cái say vì thân phận trong bài “Tháng Chạp”:
Tháng
chạp cuồng ca nào đã tắt
Hồ
Trường ngất ngưởng hóa xa xưa
Chí
trai còn lại vuông trời nhỏ
Mỗi
bước cưu mang chiếc bóng thừa
Nhà thơ họ Trần đôi lúc còn muốn chia xẻ cái say cô
đơn, luân lạc của minh với mây gió, cỏ cây như trong bài “Thèm Gió”:
Nhìn
lên cành lá đầy hoa nắng
Ta
bỗng dưng thèm cánh gió lay
Để
lá chuyển mình hoa nắng rụng
Đem
về hâm ấm rượu đêm nay
Hay những câu:
Tôi
viễn khách
Giữa
rừng phong
Men
rượu nồng
Thơ
biệt xứ
Trần Thiện Hiệp đem tâm tình để viết lịch sử . Lịch sử
một giai đoạn biến chuyển của dân tộc, và lịch sử ghi đậm nét hoàng cảnh cùng
tâm tình của dòng người luân lạc xa quê, tỏa ra khắp năm châu bốn biển, mà nhà thơ
là một chứng nhân cùng chung cảnh ngộ. Tập “Thơ
Trần Thiện Hiệp”, một thi phẩm trải rộng tâm hồn thi sĩ khắp bốn phương trời,
và khép lại trong lòng mình dấu tích của một nhà thơ có tầm vóc trong hàng ngũ
ít ỏi những nhà thơ Việt đương đại. Tiếng thơ của thi sĩ họ Trần đã buông ra
như tuyết, như hoa dưới vầng nhật nguyệt đầy ánh sáng và tiếng vọng của thời
gian, tiếng gọi của tâm tình nhân loại. Đôi khi người ta còn lắng nghe dược:
Ở
từng chữ
Hạt
lệ treo
Đọc bài “Trường
Trượng” ta cứ ngỡ như thơ Vũ Hoàng Chương còn ẩn kỳ tứ đâu đây. Với thi sĩ
họ Vũ thì:
Ta
còn để lại gì không
Kìa
non đá lỡ này sông cát bồi
Lang
thang từ độ luân hồi
U
minh nẻo trước xa xôi dặm về
Trông
ra bến hoặc bờ mê
Nghìn
thu nửa chớp bốn bề một phương
Ta
xin cát bụi bên đường
Dù
nhơ dù sạch đừng vương gót này
Cho
ta tròn một kiếp say
Cao
xanh liều một cánh tay núi trời
Riêng với nhà thơ họ Trần thì:
Ý.
Tâm ta dải sương mù
Hoa
kinh gối chữ cõi tu lối nào
Huyền
vi trường trượng trời cao
Hồng
trần những đoạn chiêm bao vô đề
Ai
phân bến giác, bờ mê
Thu
không nào điểm lối về nẻo tâm
Với bản lĩnh
thơ vững vàng, Trần Thiện Hiệp đã trải qua phần tư thế kỷ tha hương mà vẫn giữ
được tinh thần Đông Phương, phong thái của thi sĩ Việt. Mặc dầu thế, màu sắc và
thời gian, không gian trong thơ ông không thu hẹp trong “khí hậu thơ” trong nước
mình, mà thơ ghi nhận được rất nhiều hình ảnh xa lạ của thiên nhiên sự vật trên
bước đường dài ở xứ người. Điệu thơ cũng như phong thái Trần Thiện Hiệp lúc nào
cũng đầy nét hào sảng, biểu hiện tâm tình nhẫn nại vô song trước mọi cảnh huống
trong đời. Lấy tư tưởng cao siêu của nhà Phật làm nền tảng cho đời sống tinh thần
– trước mọi đau thương, bi hận của định mệnh con người – nhất là giữ được sự thủy
chung với tình yêu, với bạn hữu như trong 2 bài Lục Bát thật đẹp như sau:
Chim
lao xao, trời hồng đào
Da
thơm má ửng mắt chao thuyền về
Em
vin tay, cành hoang mê
Lá
xanh mươn mướt thỏa thê tiếng chào
Như
yêu em từ chiêm bao
Mùa
xuân nhân thế ngọt ngào vẫn nguyên
Đường
trăm năm qua bao miền
Trong
thơ em đứng bóng hiền như thơ
Ngày
chia nhau vui tình cờ
nắng
soi hồng nụ ban sơ hương nồng
Đời
lê thê niềm chờ mong
Ai
ngồi khắc đá cho dòng thơ bay
(Ngày vui tình cờ)
Và:
Yêu
người lá nở trong tim
Rừng
ta xanh biếc lạc tìm dung nhan
Yêu
người núi nở trăng vàng
Sông
ta trăm nhánh quyện ngang hình hài
Yêu
người ngày nở sao mai
Suối
ta ngàn dặm nối dài tóc sương
Yêu
người gió nở buồm dương
Biển
ta trường trượng vô lường thủy chung
(Ngày trở lại)
Giữa cái sống
và sự chết, giữa ánh sáng và đêm tối, lúc nào lộ trình của mình vẫn chan chứa
trăng sao hoa lá, mặt trời và tình yêu – Trần Thiện Hiệp có chiều sâu hơn đời của
một thi nhân là ở đó vậy. Đến với bài “Dõi Chuyến Phà Sương” thì thật là một
tinh thần lãng mạng phong phú vô cùng với thơ, với nghệ thuật hiện đại – Vì thế
mà nhiều lúc người yêu thơ thích và thuộc tiếng thơ lãng mạng hơn các loại thơ
siêu hình chỉ bàng bạc những khuông sáo của những kinh điển đạo lý, hoặc những
tư tưởng triết lý qua các nền triết học hiện đại, rất đỗi nhàm chán! Lãng mạng
bao giờ cũng tân kỳ, cũng mênh mông vô cùng của tiếng thơ từ Lamartine đến
Tagore, và những điệu thần linh ca của Hoelderlin. Thân phận con người được triết
học nói nhiều, những nhà thơ Hiện sinh như Nguyên Sa, Quách Thoại, Thanh Tâm
Tuyền, nhất là Viên Linh với tập “Cúc
Hoa” hết sức lạ thường. Trần Thiện Hiệp thì vừa cao cả vừa cô quạnh như pho
tượng “chênh vênh phận người” ở giữa
cuồng phong, giữa mùa tuyết tan, giữa cơn thịnh nộ của trời đất và thảm họa của
con người, của chiến tranh gây ra – Lúc đó ông mặc kệ, và hầu như “thách thức với số phần”, gần gũi với bằng
hữu, với tình yêu, với sợi khói với hạt rượu, với thơ...và ngây ngất suốt đời
làm kẻ “say thơ, em và rượu”. Nhưng
người đọc thơ Trần Thiện Hiệp phải ghi nhận một điều, thi ngữ của nhà thơ, đó
là chữ Em. Em trong thơ, có thể, là dòng sông, có thể là sao mai một đóa, là
ánh sáng thiên hà, là đêm trăng rằm tình sử, là chiêm bao mộng mị...Em cũng có
thể là Tạo hóa v.v... Dường như tâm hồn Trần Thiện Hiệp là một cõi đại đồng hòa
hợp nhân ái, từ tâm với mọi sự vật trong đời, cho nên thơ ông cũng vậy. Hãy đọc
“Những Với Cùng Thương” thật là một
cõi Tâm rạng ngời đạo thể!
Với
rừng
Thương
đá buồn tênh
Với
đời thương những lênh đênh phận người
Với
thơ
Thương
chữ rạng ngời
Vin
thơ tôi sống giữ đời lưu vong
Với
em
Thương
cả dị đồng
Tựa
nhau tìm phút ấm lòng ngày qua
Với
người
Xin
rất thật thà
Đạo
tâm tôi giữ đậm đà mến thương
Với
tôi
Thương
cái dị thường
Ngoài
thơ toàn những cái ương lạ đời
Với
say
thương
phút tuyệt vời
Thả
hồn theo khói chơi vơi quên sầu
Với
ngày
thương
nắng nhiệm mầu
Soi
tôi bóng ngả qua cầu nước trôi
Với
đêm
Thương
chiếc bóng ngồi
Cùng
thơ và với cái tôi chụp chùng
Nhưng không chỉ để tâm hồn thả mông lung vào cái đại
ngã, cái cao thâm của vũ trụ vạn vật, Trần Thiện Hiệp còn nêu lên rất rõ mình
là một người Việt Nam, có một truyền thống kiêu hùng, có một bản sắc văn hóa
tâm linh từ quê hương dân tộc. Như thế mặc dù xa quê đã lâu, Trần Thiện Hiệp vẫn
giữ được bền bỉ một cội nguồn dân tộc trong dòng máu. Điều đó khiến cho chúng
ta thêm yêu quí thơ ông. Ở bài “Việt Nam
Trong Tôi” nhà thơ đã hạ bút:
Trong
xương thịt tôi
Có
Trường Sơn, có Cửu Long
Có
Cao-Bắc-Lạng, có sông Hồng
Có
trời, biển rộng Nam-Trung-Bắc
Có
máu cha ông giữ nước nhà
Đôi khi thơ Trần Thiện Hiệp có điệu như cổ thi, lắm
lúc xưa hơn cả người xưa, điều hiếm thấy của các nhà thơ ngày nay – Vẫn là rượu:
Ru
em thơ cổ ngọt ngào
Ru
ta mượn chén ba đào rượu cay
Hoặc là:
Vạc
kêu cuối lũng mù sa
Non
đoài nửa mảnh trăng tà hắt hiu
Sao mà nó buồn xa thẳm đến thế. Nếu không nhập được hồn
mình vào cảnh ngộ, không chân tình làm sao người thi sĩ có thể viết được những
dòng sầu mộng như thế được. Đôi khi thơ quá buồn nhập vào cái lạnh của vách đá
khiến cho người và đá vô tri cũng lạnh lẽo như nhau:
Tựa
lưng vách đá
Thân
cùng đá
Hai
khối niềm riêng, một lạnh chung
Rồi ta lại đọc:
Trăng
tự hồng hoang muôn dặm xa
Rừng
đêm vẫn lạnh dải thiên hà
Nay
ta muốn đốt câu thần chú
Cho
đá nở bừng ngọn lửa hoa
Người xưa quan niệm cuộc đời là hư ảo, là một giấc mộng.
Tản Đà có giấc Mộng lớn, giấc Mộng con. Riêng nét nhìn đời như Trân Thiện Hiệp
thì... Đời như một cơn say, để rồi:
Năm
mươi năm nhìn lại
Tuổi
dài như mây bay
năm
mươi năm thành bại
Gẫm
đời một cơn say
...
Nẻo
tâm lồng lộng mở
Đêm
hâm rượu trăng chờ
Hoặc:
Chung
vui men rượu đắng
Rồi
đi, rồi bâng khuâng
Say đời, say tình say nghĩa hay say về sự cuồng bạo của
dòng lịch sử, say về sự thất bại của kiếp người luân lạc, của mộng ước trở
thành hoang mạc, hư không! Bao hoài bão thả dài theo khói thuốc! Sau buổi tiệc
rượu trần gian, bữa tiệc đã tàn, đã vắng, nhà thơ trở về với cái thế giới yên lặng,
mênh mông để ẩn mình trong cõi bờ thanh tịnh vô vi của Lão Trang, như trong bài
thơ “Tịnh” đầy phong vị thiền sau
đây:
Ta
về ở ẩn lưng đồi
Rạng
đông bắt gặp mây trôi ngang nhà
Tự
tay đun nước pha trà
Ngắm
đào nở rộ tháng ba quanh vườn
Hay là trong bài “Trà
Sáng”:
Thức
dậy sáng nay, trời thật gần
Chung
trà vàng giọt nắng bên sân
Ta
nghe rất rõ lòng thanh tịnh
Cây
lá quanh vườn hóa bạn thân
“Đêm Bát Nhã”
một bài thơ xếp câu ba chữ như điệu gõ mõ theo nhip tụng niệm mà nhà thơ họ Trần
tặng cho nhạc sĩ Ngô Mạnh Thu, một huynh trưởng Gia Đình Phật Tử, cũng là bạn
ngày trước của người viết ở trường Quốc Gia Âm Nhạc. Bài thơ câu ngắn, lạ lẫm
nhưng ý thật sâu xa nêu lên được cái chân lý Phật pháp của Bát Nhã Ba La Mật.
Và từ đó cho ta thấy Trần Thiện Hiệp giàu có thi ngữ, và cái triều suy nghiệm của
ông thật phong phú trong nhiều góc cạnh của đời sống:
Trong
trí nhớ
Tiếng
thở dài
Giữa
tàn phai
Cơn
sóng biển
Lời
kinh điển
Tiếng
mõ đưa
Ngày
Đại thừa
Đêm
Bát nhã
Rừng
bản ngả
Lối
u minh
Cõi
chúng sinh
Người
hành giả
Giữa
gian trá
Kẻ
tịnh tu
Vạch
sương mù
Đi
tìm Đạo
Nghe
lòng bảo
Phật
tự tâm
Diệt
tham sân
Yêu
vạn vật
Lấy
lượng Phật
Độ
trần gian
Ánh
Đạo vàng
Soi
bể khổ
Tâm
giác ngộ
Chữ
từ bi
Là
bước đi
Đấng
Bồ Tát
Với bài “Lục Bát
Rời” Trần Thiện Hiệp vừa khép lại tập thi tuyển của ông, một tập thơ mà ý
thơ, cùng cảm xúc, hứng khởi và sự suy niệm lẻ tử sinh, thành bại của cuộc đời:
Ta
đi thiên địa mù không
Ta
về nối lại những vòng khói tan
Ta
đi mòn bước quan san
Ta
về nghe lửa bếp tàn đông reo
Ta
đi trăm lũng nghìn đèo
Ta
về hiên vắng cành treo trái sầu
Ta
đi rừng biển say nhầu
Ta
về nhật nguyệt trên đầu ngón tay
Với thi tuyển “Thơ
Trần Thiện Hiệp” nhà thơ họ Trần đã chứng tỏ giá trị của một người làm thơ
có bản lĩnh, phong thái của một thi sĩ Đông Phương. Đó là một tập thơ đầy giá
trị trong cõi thơ hôm nay, và nhất quán từ đầu đến cuối. Tập thơ này xứng đáng
đặt chung với “Thủy Mộ Quan” và “Cúc Hoa” của Viên Linh, “Lời Tỏ Tình Trong
Đêm” của Trần Dạ Từ, hoặc “Hồn Thiên” của Nhất Hạnh, và những tập của Hoàng
Trúc Ly, của Hoài Khanh trong những nhà thơ hiện đại vậy.
Trần Tuấn Kiệt
Saigon, 2. 2003
Nguồn:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét