ĐỌC
THƠ CỔ: NAM QUỐC SƠN HÀ
I. Bài cảm
xúc 1
“Kẻ
sĩ phương Nam ai đâu hở ?
Trực
chỉ theo ta phận má đào
Biển
Đông ngày hội non sông mở” [*]
Cùng
giữ giang sơn hỡi đồng bào
1.
Kẻ
sĩ phương Nam ở nơi nào?
Rượu
bia bóng đá luận anh hào!
Khóc
la mê đắm ca sĩ lạ!
Quên
mất cha ông đổ máu đào!
Kẻ
sĩ phương Nam ở nơi nào?
Tào
lao ngất ngưởng hút thuốc lào!
Biệt
phủ bồ đào quên nhiễu sự
Đâu
biết ngư dân khổ thế nào!
2.
Kẻ
sĩ phương Nam vẫn thét gào
Chỉ
vào giặc Bắc nước của tao
Nghịch
ý trời phân, bây dám phạm
Toi
đời, tiêu mạng với dân tao
"Nam
quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt
nhiên định phận tại thiên thư
Như
hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ
đẳng hành khan thủ bại hư" [**]
.………....
[*]
Thơ Phạm Thanh Vân
[**]
Nam quốc sơn hà - Lý Thường Kiệt
Khóc
đợi bao năm mà trời chưa sáng!
Mù
bấy nhiêu năm chưa thấy bình minh!
Buồn
lòng thay thảm cảnh quê mình
Ai
thục nữ anh hùng? Hãy cùng dựng xây đất nước!
Đừng
ngồi đó gục đầu sướt mướt
Hãy
xăn tay bồi đắp sơn hà
Hãy
nhớ ơn xương máu ông cha
Quyết
giữ vẹn cơ đồ tiên tổ?
LÝ THƯỜNG KIỆT
1. Tiểu sử:
Lý Thường Kiệt (1019 – 1105) là một nhà quân sự, nhà
chính trị rất nổi tiếng vào thời nhà Lý nước Đại Việt. Ông làm quan qua ba triều
Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và đạt được nhiều thành tựu to lớn,
khiến ông trở thành một trong hai danh tướng vĩ đại nhất nhà Lý:
Ông nổi bật với việc chinh phạt Chiêm Thành (1069),
đánh phá 3 châu Khâm, Ung, Liêm nước Tống (1075-1076), rồi đánh bại cuộc xâm lược
Đại Việt của quân Tống do Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy (1077). Ông đã làm tể
tướng hai lần dưới thời Lý Nhân Tông và là một trong 3 người phụ chính khi vua
này còn nhỏ tuổi. Năm 2013, Bộ Văn hóa, Thể và Du lịch liệt ông vào trong những
14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất trong lịch sử Việt Nam.
2. Bài hịch/
thơ Nam Quốc Sơn Hà
Năm 1076, (tức đời Tống Hy Ninh năm thứ 9). Mùa xuân,
tháng 3, nhà Tống sai viên tướng sừng sỏ Quách Quỳ đem quân sang xâm lấn nước
ta; hợp với quân Chiêm Thành và Chân Lạp ba mặt giáp công.
Tại sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt dùng một diệu
kế: Ông kỷ lưỡng chọn một ngôi miếu vốn nổi tiếng linh thiêng, “đền thờ thần sông” nằm ở phía nam sông
Như Nguyệt - đền thờ hai vị anh hùng Trương Hát & Trương Hống, vốn là hai
võ tướng dưới thời Triệu Quang Phục - đọc bài Hịch/ thơ "Nam Quốc Sơn
Hà" - bài thơ đã được xem là tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước.
Hơn một ngàn năm trôi qua bài thơ vẫn còn và sẽ còn tồn tại mãi, không bao
giờ đi vào quên lãng trong hồn người Việt.
Thật là một diệu kế của một danh tướng. Trong thế trận
tưởng đã nghiêng về phía quân Tống, bổng đảo chiều khi binh sĩ nghe bài thơ
phát ra từ miếu thần.
Một đêm quân sĩ chợt nghe ở trong đền của Trương tướng
quân là thần sông Như nguyệt, có tiếng đọc to rằng:
Nam
quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt
nhiên phân định tại thiên thư
Như
hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ
đẳng hành khan thủ bại hư!
Dịch thơ:
(Núi
sông nước Nam thì vua Nam ở
Cương
giới đã ghi rành rành ở trong sách trời
Cớ
sao lũ giặc bạo ngược kia dám tới xâm phạm?
Chúng
bay hãy chờ xem, thế nào cũng chuốc lấy bại vong
Nam
quốc sơn hà - Lý Thường Kiệt)
Khí thế quân Nam trở nên bừng bừng như có thần nhân hổ
trợ, Tống quân bị tổn thất nặng nề. Quân Tống tiến thoái lưỡng nan từ dạo ấy.
Lý Thường Kiệt đề nghị giảng hòa nhằm giảm sự khổ đau cho nhân dân. Quách Quỳ
thấy kéo dài là sẽ thua nên thuận lui binh.
[Theo Laiquangnam và Wikipedia]
Nhân đọc lại dòng thơ cổ yêu nước, tôi đốt 3
nén hương trầm để tưởng nhớ đến người xưa, đến công ơn của tiền nhân
đã đổ ra biết bao xương máu để xây dựng và bảo vệ nước nhà.
Nguyên Lạc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét