Sử
ta chép Hưng Đạo Đại vương mất tháng 8 năm Canh Tý (1300), nhưng không thấy ghi
chép ngài thọ bao nhiêu tuổi. Nghĩa là năm sinh của ngài chưa xác định được.
Vậy thì trong mối quan hệ lằng nhằng của nhà Trần, ta
thấy Trần Quốc Tuấn là con của bà Thiện Đạo quốc mẫu, tên húy là Nguyệt, chứ không
phải con của bà Thuận Thiên Công chúa, húy là Oanh (Đại Việt sử ký toàn thư
chép: “Giáp Ngọ (1294). Mùa Xuân tháng 2,
ngày mồng 7 ban bố các chữ quốc húy... Hiển Từ Hoàng hậu là Oanh...”.
Các
nguồn tư liệu cũng không thống nhất được vấn đề năm sinh này mà đưa ra các suy
đoán khác nhau, từ 1225, 1226... đến 1232 và thậm chí còn cho rằng ông sinh sau
năm 1237 (thời điểm Thuận Thiên công chúa vợ của Trần Liễu bị ép gả cho Trần
Thái Tông). Phần đa số thì cho rằng Trần Hưng Đạo sinh năm 1232, dựa trên năm
sinh của Trần Tung (được cho là anh trai ông) là 1230.
Để
khoanh vùng vấn đề này, chúng ta cần xem xét mối tương quan với một số nhân vật
như Trần Liễu, Trần Tung, Thuận Thiên công chúa... và một vài mốc thời gian được
ghi chép lại trong sử.
ĐÔI
ĐIỀU VỀ THÂN THẾ HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG
Vấn đề này tương đối rõ ràng, nhưng vẫn nhiều người
còn nhầm lẫn mà cho rằng Trần Quốc Tuấn là con của Thuận Thiên công chúa khi bà
còn là vợ của Trần Liễu.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Kỷ Hợi (1299) mùa Xuân, tháng 4, ngày 12, xuống chiếu cấm chữ húy của
Khâm Minh Đại vương và Thiện Đạo quốc mẫu (Khâm Minh tên húy là Liễu, Thiện Đạo
tên húy là Nguyệt; Thiện Đạo là phu nhân của Liễu) khi làm văn không được dùng.
Các chữ Ngụy, Thấp, Nam, Càn, Tô, Tuấn, Anh, Tảng khi làm văn phải viết bớt
nét. Nhà Trần kiêng tên húy họ ngoại bắt đầu từ đây”.
Nói một cách đơn giản thì nhẽ ra Quốc Tuấn chỉ là con
dòng thứ (Trần Liễu lấy Công chúa nhà Lý thì bất kể bà Thiện Đạo lấy trước hay
lấy sau thì đều không được làm chính thê), nhưng bởi Thuận Thiên Công chúa bị
tước đoạt khỏi Trần Liễu mà đem gả cho Trần Thái Tông, nên vị thế của Quốc Tuấn
trong gia tộc Trần Liễu được nâng lên đáng kể.
Trần
Tung và Trần Quốc Tuấn
Các sử gia vẫn dựa vào sách Tuệ Trung thượng sĩ hành
trạng của Trần Nhân Tông, trong đó chép Trần (Quốc) Tung là “đệ nhất tử - 第一子” của Trần Liễu, để từ đó giải thích rằng “đệ nhất tử” chứ không phải trưởng tử
(cũng gọi là đích trưởng tử, đích tử).
Ở đây ta phải hiểu rõ một số khái niệm như sau: Đích tử:
con dòng chính; thứ tử: con dòng thứ; đích trưởng tử: con lớn nhất dòng đích.
Đích trưởng tử nếu không bị tật hoặc không mắc lỗi bị truất thì sẽ là người kế
hậu của cha; thứ trưởng tử: con lớn nhất dòng thứ, nếu dòng đích không có con
trai hoặc có con trai mà bị tật hoặc bị truất thì thứ trưởng tử mới được lập
làm người kế hậu của cha.
Lập luận trên dẫn đến:
1. Trần Tung chỉ là con lớn nhất chứ không phải
con trưởng - tức là con của bà Thuận Thiên.
2. Trần Tung là anh em cùng mẹ với Quốc Tuấn
(cùng là con bà Thiện Đạo) và do là “đệ
nhất tử” nên Trần Tung lớn tuổi hơn Quốc Tuấn. Do Trần Tung sinh năm 1230
(vì chưa có thông tin nào khác mâu thuẫn, chúng ta tạm tin vào những gì trích từ
Tuệ Trung thượng sĩ hành trạng) nên Quốc Tuấn không thể sinh trước năm ấy được.
Tuy nhiên, lập luận này không đúng.
Thứ nhất: “đệ nhất tử - 第一子”
chính xác là cách gọi khác của đích trưởng tử. Đại Minh hội điển - quyển 55 viết:
“郡王嫡第一子、封长子。长子嫡第一子、封长孙 - Quận vương đích đệ nhất tử, phong
Trưởng tử. Trưởng tử đích đệ nhất tử, phong Trưởng tôn - nghĩa là Đệ nhất tử của
Quận vương thì phong làm Trưởng tử, Đệ nhất tử của Trưởng tử thì phong làm Trưởng
tôn”.
Như vậy rõ ràng với việc phong trưởng tử, trưởng tôn làm người kế hậu tước Quận
vương, thì đệ nhất tử chính là chỉ người con lớn dòng đích.
Xét theo lẽ ấy thì cũng rất có thể Trần Tung là con của
bà Thuận Thiên Công chúa, là anh em cùng mẹ với Vũ Thành Vương Doãn, người vào
năm Bính Thìn (1256) đã đem cả nhà trốn sang Tống vì mâu thuẫn với Trần Thánh
Tông.
Thứ hai: Với
việc bà Thuận Thiên Công chúa được đem gả cho Trần Thái Tông thì vị trí của bà
Thiện Đạo quốc mẫu trong gia đình Trần Liễu được nâng lên làm chính thê. Bằng
chứng chính là việc được phong danh hiệu Quốc mẫu. Do vậy mà dòng đích của Trần
Liễu không cách nào phân định được là dòng Thuận Thiên hay dòng Thiện Đạo, đồng
thời cái cách gọi “đệ nhất tử” theo ý
nghĩa đích trưởng tử này lại chẳng chứng tỏ được mẹ của Trần Tung là bà nào cả.
Cũng từ đó mà ta càng không thể kết luận giữa Trần Tung và Quốc Tuấn, ai lớn tuổi
hơn ai. Trường hợp Trần Tung là con bà Thuận Thiên và đã được lập làm trưởng tử,
còn Quốc Tuấn tuy lớn hơn nhưng là con bà Thiện Đạo, hoàn toàn có thể xảy ra.
Đền
Kiếp Bạc - một trong những ngôi đền nổi tiếng thờ Hưng Đạo Đại vương
Sự
kiện năm Tân Hợi
Việc Quốc Tuấn cướp dâu xảy ra vào tháng 2 năm Tân Hợi
(1251), 2 tháng sau thì An Sinh Vương Liễu mất. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Lúc sắp mất, An Sinh cầm tay Quốc Tuấn giối
giăng rằng: Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng
không nhắm mắt được”.
Bấy giờ, Trần Tung 21 tuổi. Nếu giả định Trần Tung là
anh của Quốc Tuấn, nghĩa là khi Trần Liễu mất, Quốc Tuấn chỉ độ 18 - 20 tuổi. Sẽ
thực không hợp lý khi người cha tuyệt vọng trước lúc mất lại trăn trối cho người
con thứ, mà bỏ qua người con trưởng. Dẫu sao thì Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung
cũng là người tài giỏi, ông 2 lần tham gia cuộc chiến chống quân Nguyên, và là
thầy truyền đạo của Phật hoàng Trần Nhân Tông.
Với 2 sự kiện xảy ở năm Tân Hợi, cá nhân tôi cho rằng
Trần Quốc Tuấn phải lớn tuổi hơn Trần Tung và là con dòng thứ. Do Trần Tung là
con bà Thuận Thiên Công chúa nên được lập là trưởng. Cũng vì có quan hệ mẫu tử
với bà Thuận Thiên, nay đã là Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng thái hậu, cho nên Trần
Liễu di ngôn lại cho người con thứ lớn tuổi hơn, về việc đòi lại ngôi báu cho
chi tộc của mình.
Tước
vương triều Trần
Nhà Trần không định rõ cách gọi vương hiệu là Quốc
vương, Quận vương mà dùng Đại vương và Vương. Đoán chừng như Đại vương tương
đương với Quốc vương (dưới Hoàng đế), còn Vương tương đương với Quận vương.
Liên quan đến vương tước này, Đại Việt sử ký toàn thư
có một đoạn chép nhầm gây lẫn lộn cho người đọc sử.
“Bính
Tuất (1226)... Mùa Hạ, tháng 5, phong em là Nhật Kiểu làm Khâm Thiên Đại vương
(khi ấy mới 2 tuổi)”.
Rồi
tới: “Mậu Tý (1228)... Mùa Xuân, tháng Giêng, phong Khâm Thiên vương Nhật Kiểu
làm Quận vương”.
Độc giả khó lòng hiểu Quận vương là ở thứ bậc nào
trong vương tước, Nhật Kiểu đang là Đại vương mà lại trở thành Vương, rồi lại
gia phong Quận vương là ý làm sao?
Khâm định Việt sử thông giám cương mục ý thức được sự
nhầm lẫn này bèn sửa lại: “Bính Tuất
(1226)... Tháng 5, mùa Hạ. Phong cho em là Nhật Kiểu tước Quận vương. Nhật Kiểu
bấy giờ mới 2 tuổi, vì là em cùng mẹ với nhà vua, nên được phong tước Quận
vương”.
Và tới sau: “Mậu
Tý, năm thứ tư [1228]... Tháng Giêng, mùa Xuân. Gia phong Nhật Kiểu làm Khâm
Thiên đại vương”.
Theo Khâm Định Việt sử thông giám cương mục thì năm
Bính Tý, Nhật Kiểu được phong Khâm Thiên vương, điều này hợp với tước gọi của
ông trong Đại Việt sử ký toàn thư ở năm 1228. Tới năm 1228, từ Khâm Thiên vương
thăng làm Khâm Thiên Đại vương chứ không phải Quận vương.
Về tước vương thời nhà Trần, Đại Việt sử ký toàn thư
chép việc ở đời Trần Thái Tông: “Hoàng tử
thứ ba Quang Khải sinh, là em cùng mẹ với Thái tử Hoảng. Quốc Khang là anh trưởng,
sau đều phong Đại vương. Thứ đến Nhật Vĩnh, Ích Tắc, Chiêu Văn, đều phong
Vương. Thứ nữa thì phong Thượng vị hầu. Con trưởng của các Vương thì phong
Vương, các con thứ thì phong Thượng vị hầu, coi đó là chế độ lâu dài”.
Sang tới đời Trần Thánh Tông thì có lệ: “Cháu 3 đời được phong tước Hầu hay Quận
vương, cháu 4 đời được ban tước Minh tự, cháu 5 đời ban tước Thượng phẩm”
(Đại Việt sử ký toàn thư).
Án chiếu với đoạn chép đời Trần Thái Tông, thì cũng
chính là con của các Vương, tức cháu 3 đời của vua, con trưởng được phong Quận
vương, con thứ phong Hầu. Như vậy Quận vương cũng chính là tước Vương. Sau này
Vương thăng lên Đại vương đồng nghĩa với từ Quận vương thăng lên Quốc vương.
Tô Như
Nguồn:
https://thethaovanhoa.vn/van-hoa/su-viet-doc-cham-ky-4-doi-dieu-ve-than-the-hung-dao-dai-vuong-n20200629084942424.htm
https://thethaovanhoa.vn/van-hoa/su-viet-doc-cham-ky-4-doi-dieu-ve-than-the-hung-dao-dai-vuong-n20200629084942424.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét