Tác
giả bài viết Hà Huy Hoàng
KIM
ĐÂU, CHỢ SÒNG: LÀNG TÔI!
Hà Huy Hoàng
Tận cùng trong ký ức, Làng đối với tôi chỉ là một xóm
nhỏ: Xóm Bún, cũng có con sông uốn lượn ven làng, cũng có tiếng nhạc kẻo kẹt
trưa hè oi bức của luỹ tre xanh bao bọc xung quanh như bao làng quê nghèo khó của
vùng đất Quảng Trị. Nơi tôi đã được sinh ra, dưới bàn tay của Bà Mụ miệt vườn,
cái thời xa xưa ấy làm gì có nhà hộ sinh, làm gì có bệnh xá và những điều kiện
đầy đủ như bây giờ.
Kể từ đó tôi xa hẳn làng quê, nhưng có một điều thật lạ kỳ! Nơi
chôn nhau cắt rốn như quyện chặt vào quãng đời thơ ấu của tôi, khi đã đủ lớn mỗi
khi có dịp nghỉ là tôi về quê nội. Lễ - tết - hè, hay những ngày cuối tuần là
tôi có mặt ở quê, lúc thì về cùng ba, lúc thì một mình theo xe của các chú lính
của ba về chơi dăm bữa rồi các chú lại đón vào khi có chuyến công tác tiếp
theo, vì thế biết bao kỷ niệm của thuở ấu thời với quê nội luôn hằn sâu trong
tâm khảm của tôi. Tôi đi chăn bò, bắt chim, bắt dế khắp các cánh đồng làng, hái
sim ở rú Ôốc, tôi đã từng nhận biết được vị thơm ngọt, vẻ đẹp nên thơ, lãng mạn
của màu tím hoa sim ngay từ những ngày mình còn bé xíu xìu xiu, từ những khoảnh
rừng lúp xúp cây dại cao không quá đầu người ở ven làng nội!!!
Tôi biết luôn cả trò chơi bỏ cứt bò khô vào lon đồ hộp
rỗng, đốt cháy lên đưa ra trước gió lạnh mùa đông để kiếm thêm chút hơi ấm cho
thân mình, tôi biết bẩy con dong đất ở đồi cát trên khoảnh rừng phía đi vào
làng chính, loại dong này to nhất chỉ bằng ngón chân cái, so với loại ở miệt
Phan Rí trong Nam thì chẳng nhằm nhò gì, tôi biết tát cá bằng gàu dai, bằng xe
đạp nước ở bàu Ốốc, đi cày ở ruộng nước, đi bừa răng, bừa bôộng, đi đập đất bằng
cái chày vồ to gần bằng nửa thân mình, ở những mảnh ruộng mùa khô, những mảng đất
được cày lên cả tảng lớn, gặp phải cái nắng chói chang gay gắt của miền Trung
làm khô cứng lại như đất sét.
Thời đó tôi đã thắc mắc không hiểu sao lại không làm
cho đất vỡ ra khi nó còn ướt nhỉ, sao phải đợi đến khi khô khốc mới làm công việc
này!!?? Hèn chi tất cả những bàn tay của bà con anh em nông dân ngày ấy luôn có
những nốt chai sần, thô ráp!? Và nữa, đến mùa gặt cứ thấy các cô chú anh chị,
sau khi bó xong hai bó lúa to đùng, dùng đòn xóc đưa lên vai thế là phải chạy một
mạch từ đồng về đến nhà cho dù khoảng cách từ hai nơi có xa đến mấy. Tôi hỏi lý
do, bà nội giải thích phải chạy như vậy vì nếu để xuống sẽ có hai vấn đề xảy
ra: một là không có ai phụ đưa lên vai trở lại, vì chỉ có đàn ông trai tráng mới
có đủ sức xóc hai bó lúa to quá khổ thân người như thế lên vai; hai là để xuống
lúa sẽ bị rơi rụng rất nhiều. Tuy còn nhỏ tôi vẫn tự hỏi, sao không chia làm
hai chặng, mỗi người đi một nửa đoạn đường thì sẽ đỡ mệt và bảo đảm chẳng có hạt
lúa nào rơi, xa quá thì chia làm ba chặng, chạy theo kiểu dây chuyền, hoặc làm
một trạm nghỉ có giá đỡ để khi thấy mệt, thợ gặt có thể tựa gánh lúa vào nghỉ
đôi ba phút rồi lại tiếp tục công việc vất vả của mình. Những thắc mắc cắc cớ của
tôi chẳng được ai ghi nhận và lưu tâm để cải tiến công việc đồng áng cho bớt phần
khổ nhọc....
Tất cả những công việc trên tôi đều tham gia như một
trò chơi của mình, có những buổi chiều khi về đến nhà người tôi toàn nghe mùi
lông bò, vì bận đi và về tôi đều vắt vẻo trên lưng của chú bò đực đầu đàn với cục
u to đùng trên cổ, nơi tôi vịn tay vào để làm điểm tựa, đung đưa theo nhịp chân
cao thấp của “anh cả” với tâm trạng vui thích tột cùng! ....
Ơi làng tôi, biết bao kỷ niệm êm đềm và đong đầy
thương nhớ!! Quên sao được những đêm trăng vằng vặc của trời Thu, sau này ở
trong Nam rất hiếm khi tôi được thấy lại một đêm trăng thanh gió mát như ở quê
mình, cơm canh được dọn ra trên chiếc nôống, cả nhà quây quần với những món ăn
dân giã. Lấy ánh trăng thay cho ánh đèn dầu trong bữa ăn quả thật cũng thi vị
vô cùng! Vị mặn ngọt, thơm bùi của món mắm quả, (quả dưa làm mắm, loại dưa giống với loại dùng lấy hạt để làm hạt dưa
ngày Tết ở trong Nam, tôi nghĩ vậy. Có ai còn nhớ món này không nhỉ?!),
hình như đã thấm đẫm vào tận từng chân răng của tôi kể từ những ngày xưa thật
xa đó, đến mãi bây giờ tôi chẳng thế nào quên được, và cũng đã thật lâu lắm rồi
tôi chưa được một lần nếm lại kể từ tháng ba năm 1972, cái năm được coi là năm
định mệnh quá khắc nghiệt dành cho những con dân người Quảng Trị, món này mà ăn
vào những ngày lạnh mùa đông thì bao nhiêu cơm cũng không đủ. O Đá, chị kế của
ba tôi nấu ăn ngon tuyệt và dưa mắm cũng một tay O làm. O đi lấy chồng xa, ở
làng gì qua khỏi làng Vỹ Thừa xa tít, tôi không nhớ rõ tên, nhưng vì không có
con cái nên O về ở cùng để chăm sóc ông bà nội, tôi được hưởng lây những tài lẻ
từ O. Nội tôi có tất cả sáu người con: O Khế, Bác Bộ, O Đá, O Mít, ba tôi và O
Sẻ, đây chỉ là những tên tục, tên thật của tất cả O, Bác đều rất hay. O Khế và
O Sẻ đều về làm dâu làng Trúc Kinh, cách xóm Bún một con sông nhỏ, con sông bắt
nguồn từ phía dãy Trường sơn, chảy qua làng Trúc Khê, Trúc Kinh, mà tôi đã đề cập
từ đầu bài, sau này anh Ngà con O Cả đặt tên cho con sông này là Trúc Giang và
anh lấy nó làm bút danh của mình, kể ra tên cũng hay thật!! O Mít là con của bà
nội thứ và hình như tôi cảm nhận được sự phân biệt đối xử khá rõ ràng đối với O
và các anh chị, riêng ba tôi có vẻ thương O nhiều hơn. Tôi cũng vậy, tôi thương
O nhất nhà và chắc vì thế nên tôi cũng được nhận lại tình cảm tràn đầy từ phía
các anh chị con của O. Chị Lan (chồng chị:
anh Trần Kim Trọng tử trận năm nào tôi quên mất rồi, chỉ nhớ cháu Thuỷ lúc đó
còn nhỏ lắm), đi buôn chuyến, có thức gì ngon đều luôn dành phần cho tôi
không khi nào sót. Anh Toàn, anh Hữu là hai anh chuyên bày trò cho tôi. Trong
khu vườn của nội tôi có một hàng cây hóp, loại cây này trong miền Nam không có,
tôi cứ tưởng nó giông giống cây trúc nhưng không phải. Giống này nhỏ hơn tre
nhiều, chỉ to gần bằng ngón chân cái, lóng ngắn hơn cây trúc, phần ruột rỗng chỉ
bằng cây đũa, loại cây chuyên để chẻ lạt gói bánh tét và chuyên để làm đồ chơi
cho bọn nhóc tì chúng tôi: “Ống soóc”,
loại súng mà tôi nghĩ ai đã từng là dân ở các làng vùng quê Quảng Trị đều biết
đến thứ này lúc còn bé, không biết có đúng không!? Chỉ có tôi mới được bà nội
cho chặt bất cứ ống nào trong dãy hóp đó, mà tôi thích. Vậy là hai anh Toàn, Hữu
được ăn theo và bày cho tôi cách làm, cách chơi, biết cả cách chế thêm một ống
đạn chứa hột bời lời để trở thành một khẩu súng liên thanh, trong nhóm bạn cùng
lứa ở xóm, chỉ duy nhất mình tôi có cây súng có thể nhả đạn liên tục, thế mới “oách xà lách” chứ!. Hột bời lời thì đầy
cả đó, trong các lùm cây xanh rậm vây quanh vuờn nhà nội, tôi tha hồ chơi cho bằng
thích. Ông ngoại tôi cũng có hai bà, vì thế trong một lần vui miệng khi nói
chuyện với ba: Hai ông nội ngoại đều thế, đến bác và ba thì chỉ có một, hay là “cách một ô ăn một ô” ba hè!? Kiểu nói
khi chơi ô làng (ô quan) thời trẻ nít, ba bảo ăn thua con có gan hay không mà
thôi, con vợ mi, nó xé xác ra chừ! Tôi vốn được khen đẹp trai xưa nay là nhờ đức...
sợ vợ, nên đành thôi vậy! (Đố mi ngo ngoe
Bưởi hè!) - Bưởi là tên tục của tôi do bà nội đặt…
(còn tiếp).
Hà Huy Hoàng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét