VỀ
ĐỊA DANH MƯỜNG MÁN HAY MƯƠNG MÁN
Phan Chính
Đó là tên con sông lớn chảy giữa lòng thành phố Phan
Thiết với biết bao trang văn, câu thơ, khúc nhạc ngợi ca bất tuyệt thấm đẫm
lòng người. Thế nhưng chỉ với một tên gọi Mương Mán/ Mường Mán thôi mà vẫn còn
lắm điều chưa hẳn ai cũng dễ dàng chấp nhận.
Như vậy địa danh Mường Mán xuất hiện rộng rãi từ khi
xây dựng đường xe lửa đoạn qua Bình Thuận (ngày 15.1.1910) và có tên ga Mường
Mán (1). Tư liệu Monographie de la Provine de BinhThuan (Địa chí tỉnh Bình Thuận
- năm 1935), trên bản đồ giao thông có ghi ga Mường Mán và sông Cà Ty. Trong
tác phẩm thơ văn của Nguyễn Thông khi ở Bình Thuận (khoảng 1880 - lập Ngọa Du
Sào) lấy địa danh Phan Thiết nói đến dòng sông này là Phan giang. Gần nhất,
trên bản đồ Việt Nam do Nha địa dư quốc gia Việt Nam (thời VNCH) thiết lập năm
1956 và hiệu chính xuất bản năm 1966 cũng ghi tên sông Mường Mán.
Như vậy con sông này với người Kinh gọi là sông Mường
Mán nhưng phần hạ nguồn từ làng Phú Hội chảy ra biển người Chăm gọi là sông Cà
Ty (Kati) theo âm ngữ của người Chăm bản địa và trở thành tên sông Cà Ty. Hầu
như các địa danh trên đất Bình Thuận do người bản địa ban đầu là người Chăm đặt
tên và sau đó người Việt đọc trại hoặc gắn với từ Hán Việt để gọi và ghi chép
trên các văn bản hành chính. Liên hệ với địa danh Phan Thiết chỉ có từ khoảng
cuối thế kỷ XIX nhưng trước đó với người Chăm gọi là Hamu Lithit (ruộng gần biển)
nhưng sau người Việt đọc trại từ Mang/ Phan (trong Mang Lang, Mang Lý…) kết hợp
với Thiết (Thit) thành Phan Thiết từ kết hợp chữ Phan (từ Mang Lang, Mang Lý,
Mang Thit) và có Tam Phan. Tìm hiểu qua
nhà nghiên cứu văn hóa Chăm Kinh Duy Trịnh (Tuy Phong), với tên sông Cà Ty
(Kati) được coi đây là âm ngữ Chăm, có 2 âm tiết. Nếu không có từ sông (tiếng
người miền núi K’rông, người Chăm Kraung hay Krôn) thì riêng chữ Kati có nghĩa
là cân bằng và rộng hơn là dòng sông hiền hòa bởi chảy qua khu vực bình địa nên
lưu lượng nước sông không chảy xiết. Cho nên đoạn sông này luôn có hai dòng nước
từ nguồn đổ xuống (ngọt) pha trộn với nước thủy triều (mặn) dâng lên tạo thành
làn nước lợ cũng là phù hợp với ngữ nghĩa Kati và người Việt đọc trại thành Cà
Ty. Không riêng gì dòng sông Mường Mán có tên thứ hai là sông Cà Ty mà ở nhiều
nơi như Ninh Thuận dòng Sông Pha (Krong Pinh) còn có tên sông Dinh, sông Cái; ở
La Gi có sông Dinh nhưng hạ lưu là sông La Di/ La Gi… Trong đó, với đoạn sông từ
Phú Hội chảy ra cửa biển Cồn Chà khoảng 7 km vẫn mang tên sông Cà Ty. Tại cửa
sông, năm Giáp Dần 1794 có chiếc cầu gỗ đầu tiên tên cầu Thắng Kiều, dài 41 trượng
(làng Đức Thắng).
Nghiên cứu địa danh là một khoa học, vấn đề liên hệ
thì đây là nhóm địa danh cư dân địa phương trên cơ sở ngữ âm tiếng dân tộc
Chăm. Bởi Mương Mán/ Mường Mán nằm giáp địa bàn cư dân Chăm lâu đời của vùng đất
Hàm Thuận và coi đây là một bộ phận người Chăm sinh sống. Cạnh đó còn có một
nhóm người miền núi K’ho từ thổ phủ Di Linh, Gia Bắc dạt xuống đây quần tụ
nhưng gặp vùng đất khô kiệt nên khó hình thành làng, ấp… Ngày 15.1.1910 Toàn
quyền Đông Dương cho khai thác tuyến đường sắt đoạn Giá Rai- Mường Mán (ghi là
Mường) dài 77 km (tại km176, tính từ Sài Gòn) và đường rẽ xuống Phan Thiết 12
km (1). Tại đây có nhà ga Mường Mán tiếp nối hai đầu với ga Ma Lâm và ga Sông
Phan, ga Suối Kiết thì dân cư mới phát triển. Địa danh Mường Mán do người Kinh
gọi đối với cộng đồng người dân tộc thiểu số ở đây. Nhìn lại bối cảnh xã hội thời
phong kiến, có phần nào ở người Kinh mang nặng tính phân biệt nên gọi chung người
miền núi (dân tộc thiểu số) là Thượng, Mọi và người Chăm trong lịch sử từng gọi
là Chiêm, Hời, Mán, Thổ, Mường, Chàm… Có thể rõ hơn qua nhận định của
E.Castagnol trong “Tỉnh thành xưa Việt
Nam” (2) cho rằng: “Mường tiếng An
Nam có nghĩa là xứ, vùng. Suy rộng, từ Mường được dùng để chỉ các bộ tộc ở miền
núi khác với người ở đồng bằng”. Điều này thấy được qua cách viết trong phần
“Kiến trí duyên cách” (sách ĐNNTC, tập
12- Bình Thuận) nói về cư dân huyện Hòa Đa, Tuy Phong… mà người Chăm vốn là dân
bản địa nhưng vẫn gọi đó là Thổ, Mán. Tổ chức hành chính “Huyện thổ Hòa Đa” có 8 tổng Mán đều do các lại - lệ người Thổ quản
lý. Trong phần Phong tục, sách ghi: “…tuy
là dân Mường, Mán mà vẫn còn có phong tục trung tín vậy”, khi nói về tiết lễ,
tang tế theo Chiêm tục. Nếu theo cách hiểu bây giờ dân tộc Mán (gốc dân thời
nhà Thanh chạy sang) và dân tộc Mường (Mol, Mon…) chỉ có ở miền núi phía Bắc hoặc
các tỉnh Hòa Bình, Phú Thọ, Lào Cai, Thanh Hóa… Nhưng với những hạn chế của nhà
chép sử ngày xưa đã gọi chung là Mường, Mán để phân biệt với người Kinh. Câu ca
dao xưa “Tiếc cho cây quế giữa rừng/ Để
cho thằng Mán thằng Mường nó leo”, ám chỉ về cuộc hôn nhân của vua Chiêm Chế
Mân với công chúa Huyền Trân để đổi lấy 2 châu Ô, Lý có thể lý giải được vì sao
người Kinh vẫn gọi người Chăm là Mường, là Mán… Như vậy, mặc dù cư dân bản địa
là người Chăm nhưng vẫn gọi là Mường, Mán và dòng sông chảy ngang qua địa bàn
này trở thành địa danh như thường thấy. Rất nhiều áng văn, thơ ca tuyệt tác từng
xuất hiện khi viết về dòng sông Cà Ty thơ mộng ở Phan Thiết đều gọi đến “Mường giang” dễ liên tưởng đến một không
gian huyền ảo, mộng mơ. Suy cho cùng, cách gọi về một cộng đồng cư dân thế nào
cũng không làm thay đổi giá trị, phẩm chất và truyền thống văn hóa của họ. Qua
đó trong nghiên cứu cũng cần khẳng định là Mường chớ không phải tránh né (sợ
cho là miệt thị) để cho là Mương, không mấy hợp lý. Với một vấn đề liên quan đến
tình cảm, nhận thức của con người, thì việc nêu ra những bất cập về địa danh
Mương hay Mường Mán, chắc chắn sẽ đón nhận được nhiều ý kiến khác nhau và đó là
điều cần thiết.
Phan Chính
(1)
Việt Nam, những sự kiện lịch sử 1858-1945 (tập 2), trang 207 - Nxb Khoa học Xã
hội Hà Nội - 1982.
(2)
Do Lê Đình Tuân dịch - Trg 167- Nxb Hồng Đức 2017.
2 nhận xét:
Theo tác già Nguyễn Văn Chương trong bài viết HAI TÊN GỌI MỘT DÒNG SÔNG thì:
"Hai chữ Mường Mán gán cho vùng đất nầy e không chính xác lắm. Có người cho rằng viết Mương (furrow-drains) Máng (Gutter) thì phải hơn vì nơi đây xưa kia chỉ có cư dân sống trên núi cao, rừng sâu mà người Pháp gọi họ là Mois (Montagnards), theo hài thanh, người Việt mình gọi họ là Mọi (Mois). Họ sinh sống bằng nghề làm nương rẫy. Để có nước canh tác, họ phải dẫn nước từ thượng nguồn về bằng những con mương và kết nối những con mương ấy bằng những cái máng, để nước chảy vào ruộng nương của họ. Dần dà, tam sao thất bổn, người ta gọi vùng đất nầy là Mường Mán, và ga xe lửa có tên là ga Mường Mán. Nhưng theo chỗ tìm hiểu của chúng tôi thì tộc người Mường chỉ xuất hiện ở vùng rừng núi tỉnh Hòa Bình miền Bắc Việt-nam, một số ít ở vùng rừng núi tỉnh Thanh hóa; tộc người Mán (Sán) chỉ có ở miền Bắc hay Tây nguyên mà thôi. Sau năm 1975 đến nay, vùng đất nầy được lập thành một xã, có tên là xã Mương Máng. Tuy nhiên việc phân định rạch ròi và chính xác, theo thiển ý, đó là việc làm của những nhà khoa học chuyên ngành. Nhưng dù cho có là thế nào đi nữa thì dòng sông nầy vẫn hiện hữu và tồn tại qua bao đời, với một cuộc đời bị lãng quên, cô đơn thầm lặng, ít ai biết đến".
https://tongphuochiep-vinhlong.com/2017/02/hai-ten-goi-mot-dong-song/
Tôi cũng thiên về bài viết của Bâng Khuâng. Vì từ rất lâu tôi cũng nghe mấy người dân địa phương nói về tên Mương Máng, đó là tên dân địa phương đã đặt cho vùng này từ rất lâu.
Trước kia có vài con mương dẫn nước từ đập trên núi về phân nhánh ra dẫn nước nuôi ruộng lúa. Có đoạn mương “vượt suối” bằng máng gỗ, người ta thường dùng thân cây lớn khoét thành máng hoặc dùng ván gỗ đóng ghép lại để thành máng dẫn nước qua suối đến ruộng lúa. Tôi đã từng thấy loại máng này bắc qua 1 con suối, con suối chảy từ nơi gọi là Cà Gằng xuống hướng Phú Hội, mà dân Văn Phong mỗi khi đi Cà Gằng phại lội qua.
Có lẽ tên Mương Mán hình thành từ thời Pháp khi xây dựng nhà ga xe lửa qua vùng đất này người ta lấy địa danh “Mương Máng” chỉnh sửa thành “Mường Mán” (chỉnh âm Nam bộ “máng” thành “mán” bỏ “g” cho đúng tên tộc người Mán và “Mương” thành “Mường” cũng từ ý đó) mà họ cho là đúng nhất…
Đăng nhận xét