Tác giả Khang Hồ
LÀNG
QUÊ QUẢNG TRỊ
VÀ BƯỚC CHÂN BẠN TÔI QUA NHỮNG MIỀN TỐI SÁNG.
VÀ BƯỚC CHÂN BẠN TÔI QUA NHỮNG MIỀN TỐI SÁNG.
(Gởi tặng các bạn bè NH 71-75 yêu thương)
Chúng tôi rời
xa ngôi trường Trung Học Nguyễn Hoàng chỉ sau 6 tháng ngồi học. Vì chỉ có một
thời gian quá ngắn, nên khi nghĩ về trường, những học sinh NH 71-75 chúng tôi
hay nhớ nhiều về làng quê và phố thị đặc biệt
này. Đó là một thị xã bao quanh một ngôi làng quê Thạch Hãn. Phố nhỏ nửa
thành thị nửa nông thôn này đã gắn bó bao đời với những miền quê thôn dã.
Mỗi lần bạn bè
Nguyễn Hoàng gặp lại, câu chuyện được chú ý nhất vẫn là kể về quê cũ ngày xưa.
Khi nghe những câu chuyện như vậy, những đứa “con nít” lớn lên trong thị xã như
chúng tôi, cứ há hốc mồm lạ lẫm, vì đồng quê của các bạn ấy có nhiều màu sắc,
nhiều hương vị, nhiều cung bậc cảm xúc cho dù đó là những tháng ngày đầy gian
lao và khổ cực.
Gần đây, mỗi
khi viết lại chuyện một thời đã qua của các bạn. Người đọc cứ thấy một nỗi buồn
rất nhẹ, len lén trở về. Tôi nghĩ là do cuộc đời của các bạn buồn. Nhưng anh
tôi lại nhận xét lối viết của tôi đứng về phía nước mắt nên nó vậy thôi. Tôi
không biết nhiều về văn chương, chỉ biết viết theo sự thật và theo đúng cảm xúc
của mình.
Lần này, tôi sẽ viết về chuyện bạn tôi ngày xưa nhọc
nhằn cực khổ nhưng nhờ ý chí và nghị lực, bạn đã thành công không ngờ trong cuộc
đời hiện tại.
Quả thực, hôm
nay nếu ai đến nhà Thư, chúng ta không thể nghĩ rằng bạn đã trải qua những ngày
ấy!
Câu chuyện này đến với tôi một cách tình cờ. Trong khi
nói chuyện với Thư, nữ sinh Trung Học Nguyễn Hoàng 71-75, một người theo Thiên
Chúa Giáo, chúng tôi nhắc đến linh mục Đỗ Bác Ái, đó là một vị linh mục khả
kính mà tất cả giáo dân đều ngưỡng mộ và biết ơn, bởi những sự đóng góp cho đời
sống người dân trong vùng mà ông là cha quản xứ. Tôi chỉ nói rằng tôi cũng biết
vị linh mục này vì ông rất thân với ba tôi. Nghe xong bạn ấy mừng rỡ, như đã
thân thiết với tôi lâu lắm rồi. Rồi cứ thế, bạn ấy kể cho tôi về một tuổi thơ
gian truân, giông bão. Tôi chăm chú lắng nghe và thật cảm động vì biết Thư đã
tin mình như tin một người thân mà bao năm rồi chưa gặp lại.
Tuổi
thơ chập chờn giữa ngày tháng gian lao.
Quê ngoại tôi cũng ở Hải Lăng, nằm ven sông Ô Lâu, nơi
có những rặng cây, ruộng lúa, bờ tre, bãi bồi rất đẹp. Thuở ấu thơ, tôi về quê
ngoại chỉ nhớ con đường ven sông và vườn cây trái của ngoại mà thôi.
Tôi cũng không hề biết rằng, Hải Lăng có những vùng rất
trũng, mùa mưa nước lụt ngập đồng, ngập luôn nhà cửa, làng quê của bạn có những
rú cát mà mùa hè đi nóng bỏng chân, bạn kể rằng bạn phải băng qua đó tìm kiếm
tương lai với bao nhiêu bước chân lầy lún mới đến được ngôi trường học chữ.
Làng của Thư
có vị trí điển hình của môn học địa lý: có rú, có những động cát, có bờ biển
sóng vỗ quanh năm và những cánh đồng trũng thấp năm nào cũng ngập lụt.
Thư lớn lên trong một gia đình đạo dòng ở xứ đạo Hải
X. Gia đình có 8 anh chị em, người chị cả đi lấy chồng khi bạn còn chưa được
sinh ra, những người cháu của Thư còn lớn hơn bạn nữa. Sau này lớn nghe mạ nói,
khi mạ đi vắng, Thư đói sữa, chị hay chạy qua nhà cho bạn bú luôn. Vậy là ngoài
dòng sữa mẹ, Thư còn được nuôi nấng bằng dòng sữa từ người chị lớn của mình.
Cha mẹ bạn đều là những giáo dân quen với việc ruộng đồng, họ lao động cần cù
nuôi bầy con ăn học. Tôi nghe Thư nói, ba bạn là người có suy nghĩ rất tiến bộ,
ông là người thấy được: muốn thoát ra khỏi cấy cày vất vả chỉ có con đường học
vấn. Vì vậy bằng mọi giá ông đều cho các con đi học, nên nhà Thư luôn luôn
nghèo túng, chật vật, vì phải đầu tư mua sắm và lo lắng cho việc học hành của
các anh chị em Thư.
Trước năm 1971, Thư
còn học tiểu học ở làng quê, còn các anh chị em lớn đã sớm lên Tỉnh dạy
kèm, làm thuê các công việc khác nhau để giúp cha mẹ bớt phần nào gánh nặng khi
theo học ở Nguyễn Hoàng và các trường khác, nghe Thư kể rằng: Ngày đó, bạn chỉ đi học một buổi, buổi còn lại phải phụ giúp gia đình làm nhiều
việc lắm, nhưng thích nhất vẫn là đi chăn bò, khi tới rú bạn thả bò tự do ăn cỏ,
còn mình đi hái trâm bầu và sim chín, đến chiều dắt bò về , bò no cỏ còn người
thì ngoài một bụng trái cây còn hái thêm một mớ đem về cho mọi người trong nhà,
cùng với bộ mặt, tay chân xây xước và miệng lưỡi toàn màu sim tím rịm. Khi viết
đến đây, tôi chợt nhớ một bài dân ca Mỹ mà hồi còn bé thơ tôi rất thích, bài
hát nói về một cô bé tên là Clementine, hàng ngày cô lùa bầy gia súc lên núi
tìm kiếm thức ăn. Nhưng hình ảnh Thư lùa bò đi ăn một cách thuần thục và thuộc
hết mọi con đường lên rú, làm tôi càng nhớ đến câu thơ của anh Triệu Phong, một
CHS Trung Học Nguyễn Hoàng 57-64:
“Nếu
tuổi thơ tôi không đi chăn bò
thì
làm sao vượt được dốc Cồn Kho vào Rú Trấm...”
Không phải ai cũng ôm ấp một tuổi thơ khổ nhọc và những
ngày tháng chăn bò đi theo suốt cuộc đời như Thư đâu!
Những ngày thơ, cũng là những ngày Thư được rèn luyện
công việc đồng áng. Trong mùa gặt, mọi người gánh lúa về để thành một vòng tròn
trước sân, ban đêm mấy người anh lớn dắt những con bò đi theo vòng tròn dẫm lên
để hạt lúa rớt ra, Thư nhỏ nhất nên được phân công cầm một cái xô đi sau con bò
theo dõi hứng phân khi nó đi vệ sinh để không làm bẩn lúa.
Việc giả gạo trước đây là của các anh chị lớn, bây giờ
cũng giao cho bạn vì nhà không còn người làm. Thư nhớ mãi khi giả gạo phải đứng
trên một cái chày để đạp như trò chơi bập bênh ngày nay, nhưng ngày ấy bạn nhẹ
cân quá nên mạ phải cột thêm một quả bí vào bụng cho nặng mới giả gạo được.
Những đêm mưa lạnh, anh chị em trong nhà đi “đơm” cá,
khi đem cá về, mạ bạn sẽ lựa những con cá to ngon đem ra chợ bán, còn lại để cả
nhà ăn dần trong các ngày còn lại.
Mùa đông Quảng Trị ngày xưa rất lạnh, tôi chưa bao giờ
“nếm” được cảm giác đêm mùa đông không chăn mền, vùi mình trong “chiếc giường” rơm
rạ rồi cho hai chân vào cái bao bố kéo lên ngang ngực. Nghe Thư kể đến đây lòng
tôi trào dâng niềm thương xót. Một tuổi thơ quá khổ cực. Tôi chợt nhớ một người
bạn của tôi khi học trường Nam, năm đó là năm 1970, tôi học lớp 5 tại trường
Nam, cũng trong một buổi sáng mùa đông, trên đường đi học tôi chợt thấy bạn
Nguyễn Khai đeo một bao bánh mì rao bán, bạn thấy tôi liền ngoảnh mắt nhìn chỗ
khác, còn tôi thì cứ trào lên một tình thương về bạn. Ngày đó những cuốn sách “Tâm hồn cao thượng”, “Dưới mái học học đường”
đã ăn sâu vào trái tim và tâm hồn non nớt của tôi. Triết lý giáo dục nhân bản
đã dạy cho một đứa trẻ như tôi có một rung cảm đầy tình người khi chứng kiến những
cảnh đời khốn khổ.
Ruộng đồng gắn chặt với đứa con gái chưa học qua tiểu
học, cho đến một ngày, bạn phải một mình lên Tỉnh để thi vào lớp đệ thất. Con
gái trong làng ít người học cao lắm, họ chỉ học đến lớp ba, lớp bốn rồi phụ việc
nhà, giúp đỡ cha mẹ trước khi đi lấy chồng. Thư nói rằng bạn có diễm phúc khi
có một người cha luôn nhắc nhở và động viên con cái học hành. Rồi bạn cũng đậu
đệ thất, lần đầu tiên trong đời được màu bộ áo dài trắng tinh đi học. Bạn chỉ
có duy nhất một bộ áo dài, ngày mặc đêm giặt, quạt than và ủi. Nhưng đó là một
niềm hạnh phúc trong cuộc đời mà Thư nhớ mãi.
Làng quê trong trí nhớ ngày ấy của Thư thật đẹp, bạn
coi nhà thờ như một nơi thiêng liêng, thân thiết nhất của cuộc đời, bao mệt nhọc, buồn phiền của cuộc sống, khi vào nhà thờ đều
thấy tan biến và nhẹ nhỏm tâm hồn.
Có lần buổi trưa nắng đi học trường làng về, người rất
mệt mỏi, đói khát, mồ hôi chảy đầm ướt áo, bạn ấy thấy có một chiếc xe jeep dừng
lại cạnh mình và thật ngạc nhiên, người lái xe là Cha Đỗ Bác Ái. Cha bước xuống,
lau khuôn mặt ướt đẩm mồ hôi và ẳm bạn lên xe rồi chở về tận nhà. Câu chuyện xảy
ra đã lâu, nhưng hôm nay bạn kể lại thật sống động với một lòng tôn kính và biết
ơn sâu xa về một vị linh mục quản xứ hiền lành đức độ và rất thương yêu trẻ em.
Bạn nói bây giờ Đức Cha đã 95 tuổi rồi, nhưng cứ mỗi lần sinh nhật Cha, bạn vẫn
gửi thư kính mừng. Bạn còn tự hứa, nếu sau này Cha mất bạn sẽ vô tận miền Nam để
dự lễ tiễn đưa Cha về với Chúa.
Nếu không có chiến tranh, thì tôi chưa biết cuộc đời
Thư như thế nào. Nhưng mùa hè năm 1972 thực sự là cuộc chiến lớn tại Quảng Trị.
Cũng như bao gia đình khác, Gia đình Thư phải vượt qua bao chặng đường khổ nhọc
để vào tị nạn tại trại 6 Non Nước. Tôi lại nghe bạn nói một điều bất ngờ nữa:
Những ngày ở trại 6 Non Nước chính là những ngày tháng thần tiên của Thư, bạn
đi bộ qua trại 5 học NH, đó là những ngày tháng không còn phải lo lắng hay phụ
giúp việc đồng áng, Thư có nhiều thời gian sinh hoạt với các bạn trong phong
tràoThiếu Nhi Thánh Thể, được đi chơi chùa Non Nước, Trà Kiệu… rất vui và hạnh
phúc.
Rồi những “ngày tháng thần tiên” đó cũng chấm dứt. Đó
là mùa hè năm 1974, gia đình Thư hồi cư. Ranh giới Quảng Trị từ sông Bến Hải,
bây giờ đổi là sông Thạch Hãn, quê bạn ở bờ Nam nên về lại làng xưa. Thư trở về
với làng cũ, nhưng bây giờ còn nhiều dấu tích của chiến tranh: giáo đường đổ
nát chỉ còn trơ lại gác chuông, nhiều ngôi trường, trạm xá cha Ái xây dựng đã bị
bom đạn hủy hoại. Thư vẫn làm ruộng và học
hành. Một ngày kia, khi đang cấy lúa ngoài đồng thì đứa em út chạy ra kêu chị về
có việc. Thư kể với tôi: cũng không ngờ rằng, mình mới 13-14 tuổi đầu mà có người
đem trái cây tới nhà thưa chuyện với ba mạ, xin dạm hỏi vợ cho con trai của họ.
Thư chối từ quyết liệt, bạn nói với ba mạ rằng chỉ thích đi tu thôi. Ôi, con
gái thôn quê là vậy. Người ta thấy chăm chỉ, khỏe mạnh là tới “xin” liền. Họ chọn
con dâu như chọn một con trâu để cày ruộng và làm việc. Thật thất vọng bởi ý
nghĩ của người dân quê nào đó và tội nghiệp cho đời một người con gái, nếu
không quyết liệt từ chối như bạn tôi.
Sau
30 tháng 4- Đối mặt và vượt qua những tháng ngày nghiệt ngã.
Từ tháng 3 năm 1975, Chiến tranh lại bùng nổ, quyết liệt
và tràn lan khắp miền Nam. Không ai ngờ rằng, có rất nhiều nhà, sau cuộc chiến
này đã thay đổi, đã có sự xuất hiện của: tang tóc, chia ly, tù tội, đói nghèo,
khổ cực…
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Gia đình Thư đã chính thức
đối mặt với nhiều khó khăn mới. Các anh của Thư vốn là sĩ quan của QLVNCH phải
đi cải tạo, gia đình công giáo trong ánh mắt của những người chiến thắng hôm
nay có rất ít thiện cảm. Ngày xưa, gia đình Thư đã khó bây giờ lại càng khó
hơn, cha mẹ mỗi ngày càng già yếu, con trai, con rể người thì vào Nam sinh sống,
người thì đang bị học tập cải tạo ở tận một nơi nào.
Thư của tôi một lần nữa phải đóng “vai chính ”trong
gia đình để đi làm lấy “công điểm”, một hình thức đánh giá hiệu quả của lao động,
để từ đó được nhận lại một số lương thực do mình đã đóng góp vào. Có lẽ vậy mà
sau khi tốt nghiệp lớp 9 (cấp 2), bạn không thể đậu vào lớp 10. Gánh nặng gia
đình khiến bạn không còn nhiều thời gian và sức lực cho việc ôn thi.
Như rất nhiều người bạn của tôi khi đó, họ không thể
tiếp tục con đường học vấn vì có quá nhiều khó khăn trong cuộc sống. Tất cả đều
gác việc bút nghiên theo đời cơm áo. Cũng may, người anh của Thư có lẽ là sĩ
quan mới ra trường nên học tập cải tạo cũng ngắn thôi, hy vọng anh về, sẽ có
người đỡ đần cha mẹ thay cho bạn. Sau hai năm lam lũ với ruộng đồng, Thư nộp
đơn xin học Y tá, ngày đó học Y tá chỉ cần học xong cấp 2 là được. Thư nộp thật
tình cờ vì bạn nghĩ rằng lao động cày cuốc quá cực khổ, và cũng ít hy vọng vì
gia đình có người đi lính quân đội miền Nam, lý lịch không được tốt lắm, nhưng
may sao bạn được gọi đi học. Thư ra trường, làm tại bệnh viện huyện Hải Lăng.
Khi làm công việc của một người Y tá, bạn mới thấm thía về việc cần phải học
lên, vì công việc thì cực, lương quá thấp. Ba Thư đang có những dấu hiệu bệnh tật
nhưng kiến thức ngành Y của Thư ngày đó còn yếu nên nàng cũng bất lực. Người
anh của Thư có lẽ cảm thấy không phù hợp với xã hội bây giờ nên đã oversea. Anh
rất có hiếu, khi đến nơi “đất mới”, đã
tìm mọi cách mua thuốc gởi về cho ba Thư. Nhưng thuốc trên đường về thì ông
cũng đã mất, năm ấy là năm 1979.
Sau khi ba Thư qua đời, bạn càng quyết tâm học tiếp.
Đã rất nhiều lần bạn xin các vị lãnh đạo bệnh viện đi học Y sĩ, nhưng họ vẫn cứ
từ chối, cái lý lịch “đen” luôn đeo đẳng suốt cuộc đời. Thư vẫn kiên trì năm
nào cũng xin và đến năm 1983, tức là hơn 5 năm làm Y tá, người ta đã cảm nhận
được sự kiên nhẫn cầu tiến của bạn nên cho học lớp Y sĩ. Sau khi tốt nghiệp,
Thư cũng làm việc tại bệnh viện này. Nhưng tại vị trí mới, “mắt” của Thư bắt đầu
mở to hơn, nàng đã nhìn thấy thêm được nhiều điều, nàng tiếc ngày xưa việc học
hành bị đứt quãng. Thư liền đi học bổ túc ban đêm để hoàn thành bậc trung học.
Ý định thi vào trường Y khoa để học thành một bác sĩ đa khoa đã bắt đầu hình
thành nhen nhúm. Điểm thuận lợi của ngày đó là nàng ít lo lắng cho kinh tế gia
đình bởi các anh ở xa cũng gởi về cho mạ, lương Y sĩ cũng không đến nổi nào cho
một người độc thân như Thư. Ngày đi làm, tối miệt mài học bổ túc văn hóa.
Nhưng cuộc đời
luôn là một dòng chảy cuốn theo nhiều mới lạ. Có một người đàn ông đã đến gõ cửa
trái tim của nàng không biết tự bao giờ. Đó chính người thầy dạy môn Hóa học của
Thư, với sự dạy dỗ và giúp đỡ tận tình, người thầy này không những đã giúp bạn
tốt nghiệp cấp 3 mà còn ôn rất vững môn Hóa cho việc chuẩn bị thi Đại học Y. Bạn
tôi bắt đầu yêu người ấy, một mối tình có sự hiện diện nhiều sắc màu hạnh phúc
mà không phải ai cũng có được: tình yêu, lòng biết ơn và sự tôn trọng.
Năm 1987, họ lấy nhau như Thiên Chúa đã kết hợp. Hai đứa
con lần lượt ra đời càng gắn chặt thêm cuộc sống và hạnh phúc của hai người.
Công việc bệnh viện, con cái, gia đình bận rộn, nhưng
quyết tâm học thành bác sĩ của Thư không thay đổi, nàng và chồng cùng nuôi con,
cùng ôn tập thi. Và trời không phụ lòng người, năm 1993 nàng thi đậu Y khoa
ngay trong lần thi đầu tiên, cùng lúc đó chồng nàng cũng đậu luôn lớp cao học.
Cả nhà Thư đèo bồng con cái vào Huế để đi học, đó là những năm tháng vất vả nhất
trong cuộc đời: hai vợ chồng vừa nuôi con vừa học xa.
Rồi Thư cũng tốt nghiệp Bác sĩ đa khoa, nhưng nàng lại
học tiếp chuyên khoa RHM thêm 18 tháng nữa. Kể từ đây, Thư đã hoàn thành những
kế hoạch đặt ra cho cuộc đời sau nhiều năm kiên trì và nổ lực. Kế hoạch đó ngay
cả những người học hành “một mạch” như tôi cũng phải nghiêng mình thán phục.
Bây giờ, Thư đã là một bác sĩ nha khoa.
Còn chồng Thư sau khi lấy bằng Thạc sĩ, sở Giáo Dục điều
động anh về tỉnh dạy một trường cao đẳng, chồng một nơi, vợ một nẽo, nheo nhóc
ba năm trời. Năm 2000, Thư được chuyển công tác về ĐH cùng chồng.
Thời gian dần trôi, những đứa trẻ ngày hôm qua, dưới sự
nuôi nấng, giáo dục của cha mẹ bắt đầu lớn và vào trường Đại học, thì lúc này -
năm 2011, Thư thấy cần thiết phải vào ĐH Y Dược SG học thêm một khóa về Răng thẩm
mỹ kéo dài 2 năm ròng rã. Nàng đã kiên trì học để mau chóng trở thành một
chuyên gia thực thụ về Răng tại cái tỉnh lỵ nhỏ bé này.
Và tất nhiên người phụ nữ đầy nghị lực này không bao
giờ cho phép mình nghỉ ngơi sau khi học xong.
Thư đã mở ra một phòng khám Nha Khoa, có gần 50 nhân
viên được đào tạo bài bản, khám chữa bệnh cho mọi người với một thái độ chuyên
nghiệp như những bệnh viện lớn. Hàng ngày, Thư vẫn trực tiếp điều hành công việc,
nhưng mới đây, bạn mừng rỡ nói với tôi: “Mình
sắp được nghỉ rồi Khang ơi, chờ thằng con trai của mình học xong BS chuyên khoa
cấp 1 về RHM thì mình sẽ giao tất cả công việc tại phòng khám này cho cháu”.
Còn con gái đầu của Thư, nay là Thạc sĩ đang dạy tại
ngôi trường mà ba cháu đã dạy ngày xưa.
****
Tôi gặp Thư trong một mùa hội trường nhiều kỷ niệm. Bạn
đã kể cho tôi nghe câu chuyện về quãng đời khó khăn, nghèo đói xen lẫn nhiều tủi
buồn, nước mắt. Và Thư đã giữ nó làm hành trang bên mình để quyết tâm thay đổi
số phận của một người con gái xứ đạo vô vọng năm nào.
Khi tôi viết những dòng chữ này, thì quanh tôi có rất
nhiều người bạn gái đã vượt qua những tháng ngày tăm tối, đứng dậy sáng lòa. Những
ngày sau 30 tháng tư năm đó hiện về, bao nhiêu bạn học của tôi đã đứt gánh con
đường học tập. Tôi tưởng không có ngày gặp lại, nhưng tôi đã thấy một cô giáo
VP tại Bà Rịa VT mà ngày tôi đi học thì bạn mãi còn trên công trường Thủy lợi Đập
Trấm xa xôi. Tôi cũng gặp lại một cô giáo ngoan đạo HTL tại Xuân Lộc, Đồng Nai mà
ngày hôm qua còn gánh thịt từ làng quê Đạo Đầu ra chợ Tỉnh ngồi bán, trong lúc
các bạn mình còn hồn nhiên bên lớp học. Và còn rất nhiều người bạn khác của tôi
đã có một cuộc sống rất tốt đẹp ngày hôm nay. Tất cả các bạn là những tấm gương
sáng cho các con cháu và làm rạng danh nữ sinh NH Quảng Trị.
Còn với Thư, bạn là một người mạnh mẻ về ý chí và khát
vọng vươn lên không ngừng. Nhìn bạn hôm nay rạng ngời bước qua bao miền tối
sáng để đứng lên trên mảnh đất quê hương đầy bom đạn, tôi biết bạn phải trả giá
rất nhiều và cái giá lớn nhất chính là sức khỏe của bạn đang bị bào mòn theo từng
tháng từng ngày. Bạn đang chịu đựng và cố quên những cơn đau ngày đêm hành hạ
cơ thể để mỉm cười và cảm ơn mọi người
giúp đỡ chung quanh.
Và tôi đoán, nụ cười tươi đẹp nhất, Thư sẽ dành tặng
cho một người đàn ông, một người thầy, một người chồng đã bao đêm cùng bạn cặm
cụi dưới ánh đèn…
Khang Hồ
Nha
Trang tháng 10, những ngày chim báo bão.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét