Nguồn:
https://trithucvn.net/van-hoa/ky-uc-ve-nhung-bai-hoc-thuoc-long-thoi-tieu-hoc.html
KÝ
ỨC VỀ NHỮNG BÀI HỌC THUỘC LÒNG THỜI TIỂU HỌC Ở MIỀN NAM TRƯỚC NĂM 1975
Dân miền Nam, những ai bây giờ chừng 55 tuổi trở lên,
chắc đều nhớ rõ cách tổ chức độc đáo ở các lớp bậc tiểu học cách đây hơn bốn thập
niên. Hồi đó, cách gọi tên các lớp học ngược lại với bây giờ, theo thứ tự từ lớn
đến nhỏ. Lớp Năm là lớp Một ngày nay, rồi đến lớp Tư, lớp Ba, lớp Nhì, trên
cùng là lớp Nhứt. Lớp Năm, tức là lớp thấp nhất, thường do các thầy cô giỏi nhất
hoặc cao niên, dồi dào kinh nghiệm nhất phụ trách.
Sở dĩ như vậy là vì bậc học này được xem là vô cùng
quan trọng, dạy học trò từ chỗ chưa biết gì đến chỗ biết đọc, biết viết, biết
những kiến thức cơ bản đầu tiên, nghĩa là biến từ chỗ không có gì đến chỗ bắt đầu
có.
Học trò, không phân biệt giàu nghèo, khi đến lớp chỉ
được dùng một thứ bút duy nhất, là bút ngòi lá tre. Gọi là lá tre bởi vì bút có
cái ngòi có thể tháo rời ra được, giống hình lá tre nho nhỏ, khi viết thì chấm
vào bình mực. Bình mực, thường là mực tím, có một cái khoen nơi nắp để móc vào
ngón tay cho tiện. Thân bình bên trong gắn liền với một ống nhựa hình phểu dưới
nhỏ trên to để mực khỏi sánh ra theo nhịp bước của học trò. Khi vào lớp thì học
trò đặt bình mực vào một cái lổ tròn vừa vặn khoét sẵn trên bàn học cho khỏi
ngã đổ. Bút bi thời đó đã có, gọi là bút nguyên tử, là thứ đầy ma lực hấp dẫn đối
với học trò ngày ấy, nhưng bị triệt để cấm dùng.
Các thầy cô quan niệm rằng rèn chữ là rèn người, nên nếu
cho phép học trò lớp nhỏ sử dụng bút bi sớm, thì sợ khi lớn lên, chúng sẽ dễ
sinh ra lười biếng và cẩu thả trong tính cách chăng. Mỗi lớp học chỉ có một thầy
hoặc một cô duy nhất phụ trách tất cả các môn.
Thầy gọi trò bằng con, và trò cũng xưng con chứ không
xưng em với thầy. Về việc dạy dỗ, không thầy nào dạy giống thầy nào, nhưng mục
tiêu kiến thức sau khi học xong các cấp lớp phải bảo đảm như nhau. Thí dụ như học
xong lớp Năm thì phải đọc thông viết thạo, nắm vững hai phép toán cộng, trừ, lớp
Tư thì bắt đầu tập làm văn, thuộc bảng cửu chương để làm các bài toán nhân,
chia… Sách giáo khoa cũng không nhất thiết phải thống nhất, nên không có lớp học
giống lớp nào về nội dung cụ thể từng bài giảng.
Cứ mỗi năm lại có các ban tu thư, có thể là do tư nhân
tổ chức, soạn ra những sách giáo khoa mới giấy trắng tinh, rồi đem phân phối khắp
các nhà sách lớn nhỏ từ thành thị cho chí nông thôn. Các thầy cô được trọn quyền
lựa chọn các sách giáo khoa ấy để làm tài liệu giảng dạy, miễn sao hợp với nội
dung chung của Bộ Giáo dục là được.
Tuyệt nhiên không thấy có chuyện dạy thêm, học thêm ở
bậc học này nên khi mùa hè đến, học trò cứ vui chơi thoải mái suốt cả mấy tháng
dài. Các môn học ngày trước đại khái cũng giống như bây giờ, chỉ có các bài học
thuộc lòng trong sách Việt Văn, theo tôi, là ấn tượng hơn nhiều.
Đó là những bài thơ, những bài văn vần dễ nhớ nhưng rất
sâu sắc về tình cảm gia đình, tình yêu thương loài vật, tình cảm bạn bè, tình
nhân loại, đặc biệt là lòng tự tôn dân tộc Việt.
Tôi còn nhớ rõ trong sách Tân Việt Văn lớp Năm có bài
học thuộc lòng thật hay về bóng đá mà hồi đó gọi bằng một từ rất hoa mỹ, là túc
cầu:
TRẬN CẦU QUỐC TẾ
Chiều
chưa ngả, nắng còn gay gắt lắm
Hai
đội cầu hăng hái tiến ra sân
Tiếng
hoan hô thêm dũng mãnh bội phần
Để
cổ võ cho trận cầu quốc tế.
Đoàn
tuyển thủ nước nhà hơi nhỏ bé
Nếu
so cùng cầu tướng ở phương xa
Còi
xuất quân vừa lanh lảnh ban ra
Thì
trận đấu đã vô cùng sôi nổi.
Tiền
đạo ta như sóng cồn tiến tới
Khi
tạt ngang, khi nhồi bóng, làm bàn
Khiến
đối phương thành rối loạn, hoang mang
Hậu
vệ yếu phải lui về thế thủ
Thiếu
bình tỉnh, một vài người chơi dữ
Nên
trọng tài cảnh cáo đuổi ra sân
Quả
bóng da lăn lộn biết bao lần
Hết
hai hiệp và…đội nhà đã thắng
Ta
tuy bé nhưng đồng lòng cố gắng
Biết
nêu cao gương đoàn kết đấu tranh
Khi
giao banh, khi phá lưới, hãm thành
Nên
đoạt giải dù địch to gấp bội…
Bài học thuộc lòng này, về sau tôi được biết, lấy cảm
hứng từ chiếc cúp vô địch đầu tiên và duy nhất cho đến bây giờ của Việt Nam tại
Đông Á Vận Hội trên sân Merdeka của Malaysia vào cuối thập niên 50, với những
tên tuổi vang bóng một thời như Tam Lang, Ngôn, Cù Sinh, Vinh “đầu sói”, Cù Hè,
Rạng “tay nhựa”… Tuy không biết chơi bóng đá, nhưng thằng bé là tôi lúc đó rất
thích bài học thuộc lòng này nên tự nhiên…thuộc lòng luôn.
Càng đọc càng ngẫm nghĩ, đây đâu phải là bài thơ chỉ
nói về bóng đá mà thôi. Nó là bài học đoàn kết của một dân tộc tuy nhỏ bé nhưng
gan lỳ, bất khuất khiến cho cả thế giới phải ngước nhìn bằng đôi mắt khâm phục.
Bạn thấy lạ lùng chưa, chỉ một bài thơ ngắn nói về một thứ trò chơi thôi, mà lại
chứa đựng biết bao nhiêu điều vĩ đại mà những lời đao to búa lớn ồn ào chắc chi
đã làm được.
Nói về môn Lịch sử, hồi đó gọi là Quốc sử, đã có sẵn một
bài học thuộc lòng khác:
GIỜ QUỐC SỬ
Những
buổi sáng vừng hồng le lói chiếu
Trên
non sông, làng mạc, ruộng đồng quê,
Chúng
tôi ngồi yên lặng, lắng tai nghe
Tiếng
thầy giảng khắp trong giờ Quốc sử.
Thầy
tôi bảo:
“Các
con nên nhớ rõ,
Nước
chúng ta là một nước vinh quang.
Bao
anh hùng thưở trước của giang san,
Đã
đổ máu vì lợi quyền dân tộc.
Các
con nên đêm ngày chăm chỉ học,
Để
sau này mong nối chí tiền nhân.
Ta
tin rằng, sau một cuộc xoay vần,
Dân
tộc Việt vẫn là dân hùng liệt.
Ta
tin tưởng không bao giờ tiêu diệt,
Giống
anh hùng trên sông núi Việt Nam.
Bên
những trang lịch sử bốn ngàn năm,
Đầy
chiến thắng, vinh quang và hạnh phúc”
Hình ảnh ông thầy dạy Sử trong bài học thuộc lòng hiện
lên, nghiêm nghị nhưng lại thân thương quá chừng, và bài Sử của thầy, tuy không
nói về một trận đánh, một chiến công hay một sự kiện quá khứ hào hùng nào,
nhưng lại có sức lay động mãnh liệt với đám học trò chúng tôi ngày ấy, đến nỗi
mấy chục năm sau chúng tôi vẫn nhớ như in.
Lại có bài song thất lục bát về ông thầy dạy Địa lý,
không nhớ tác giả là ai, nhưng chắc chắn tựa đề là “Tập vẽ bản đồ”, phía lề
trái còn in cả hình vẽ minh họa của Quần đảo Trường Sa và Hoàng sa:
Hôm
qua tập vẽ bản đồ,
Thầy
em lên bảng kẻ ô rõ ràng.
Ranh
giới vẽ phấn vàng dễ kiếm,
Từ
Nam Quan cho đến Cà Mau.
Từng
nơi, thầy thuộc làu làu,
Đây
sen Đồng Tháp,
đây
cầu Hiền Lương. Biển Đông Hải,
trùng
dương xanh thẳm,
Núi
cheo leo thầy chấm màu nâu.
Tay
đưa mềm mại đến đâu,
Sông
xanh uốn khúc, rừng sâu chập chùng…
Rồi
với giọng trầm hùng, thầy giảng:
“Giống
Rồng Tiên chói rạng núi rừng,
Trải
bao thăng giáng, phế hưng,
Đem
giòng máu thắm, bón từng gốc cây.
Làn
không khí giờ đây ta thở,
Đường
ta đi, nhà ở nơi này,
Tổ
tiên từng chịu đắng cay,
Mới
lưu truyền lại đêm ngày cho ta.
Là
con cháu muôn nhà gìn giữ,
Đùm
bọc nhau, sinh tử cùng nhau.
Tóc
thầy hai thứ từ lâu,
Mà
tài chưa đủ làm giàu núi sông !
Nay
chỉ biết ra công dạy dỗ,
Đàn
trẻ thơ mong ở ngày mai.
Bao
nhiêu hy vọng lâu dài,
Dồn
vào tất cả trí tài các con …”
Giờ đây, mấy chục năm đã trôi qua, tóc trên đầu tôi
cũng bắt đầu hai thứ như ông thầy già dạy Địa trong bài học thuộc lòng ngày ấy,
nhưng có một điều mà tôi nghĩ mãi vẫn chưa ra. Ông thầy đang dạy Địa, hay ông
thầy đang âm thầm truyền thụ lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc cho đàn trẻ thơ
qua mấy nét vẽ bản đồ?
Lời của thầy thật là nhẹ nhàng, khiêm tốn nhưng cũng
thật là tha thiết, chạm vào được chỗ thiêng liêng nhất trong tâm hồn những đứa
trẻ ngây thơ vào những ngày đầu tiên cắp sách đến trường, nơi chúng được dạy rằng
ngoài ngôi nhà nhỏ bé của mình với ông bà, cha mẹ, anh em ruột thịt, chúng còn
có một ngôi nhà nữa, rộng lớn hơn nhiều, nguy nga tráng lệ, thiêng liêng vĩ đại
hơn nhiều, một ngôi nhà mà chúng phải thương yêu và có bổn phận phải vun đắp: Tổ
quốc Việt Nam.
Phan Văn Phước
Ngày 2 tháng 3, 2016
Theo Nam Kỳ Lục Tỉnh (namkyluctinh.org)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét