Nguồn:
https://tuoitre.vn/hon-phu-hon-the-la-nguoi-chong-nguoi-vo-u-me-1216045.htm
TS
Lê Thị Bích Hồng
(giảng viên cao cấp Trường đại học Sân khấu - điện ảnh Hà Nội)
Từ
Hán Việt là một loại từ đặc biệt trong vốn từ vựng tiếng Việt, là một bộ phận rất
quan trọng của kho từ vựng tiếng Việt.
Lớp
từ Hán Việt có khối lượng lớn, được sử dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, đặc biệt là trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, nghệ
thuật...
Tuy
nhiên, theo thống kê sơ bộ của khoa ngôn ngữ, có tới 16 hình thức sử dụng sai từ
Hán Việt khá phổ biến hiện nay như: sai vì không hiểu gốc Hán Việt, sai vì cố ý
sửa gốc của từ, sai vì không hiểu văn phạm giữa Hán Việt và Hán Nôm, sai vì
dùng từ thiếu chính xác ngữ cảnh; dùng sai nghĩa từ thuần Việt lại tưởng từ Hán
Việt, dùng từ Hán Việt vô nghĩa và lộn xộn, cóp y nguyên tiếng Tàu đang sử dụng
và coi đó là từ Hán Việt, đảo ngược ngữ pháp hay cấu trúc từ Hán Việt, đảo từ
ghép Hán Việt sai và không đúng cách, thiếu từ cho các thuật ngữ khoa học công
nghệ hay chuyển nghĩa từ ngoại ngữ phương Tây sang...
NHỮNG
LỖI SAI PHỔ BIẾN KHI DÙNG TỪ HÁN VIỆT
Lê Thị Bích Hồng
Lớp từ Hán Việt thường có sắc thái trang trọng, trong
khi lớp từ thuần Việt lại bình dân và sinh động hơn. Nhiều từ Hán Việt đã được
Việt hóa thông dụng, có từ đã biến đổi ý nghĩa.
Nhiều người dùng mượn hình thức ngữ âm của từ Hán rồi
thay đổi nghĩa, thu hẹp nghĩa, cho thêm nghĩa mới.
Ví dụ, “phương phi” nghĩa Hán là “hoa cỏ thơm tho”,
người Việt hiểu sang “béo tốt”.
Tương tự, “khôi ngô” nghĩa “to lớn, cao to” sang nghĩa
“mặt mũi sáng sủa, dễ coi”; “bồi hồi” nghĩa “đi đi lại lại” sang nghĩa “sự xúc
động”; “đinh ninh” nghĩa “dặn dò” sang nghĩa “tin chắc, yên chí”; “lang bạt kỳ
hồ” nghĩa “lúng túng, quanh quẩn tại chỗ” sang nghĩa “lang thang khắp nơi khắp
chốn” (Theo Đặng Đức Siêu, Ngữ văn Hán Nôm)...
Từ “khuyến mãi” nay dùng thành “khuyến mại”. Cụm từ
“kích thích nhu cầu tiêu dùng” rút thành “kích cầu” - từ này đang dần được chấp
nhận. Từ “yêu cầu” là một động từ. Nhưng hiện từ “yêu cầu” hay được dùng với
nghĩa danh từ. Ví dụ: “mục đích yêu cầu”...
Từ “đáo để” trong tiếng Hán có nghĩa là “đến đáy”,
nhưng khi đi vào tiếng Việt nó lại có nghĩa là cách cư xử không đẹp, khiến người
ta khó gần; hoặc có khi nó được dùng làm tiếng đệm nhằm nhấn mạnh ý nghĩa của
tính từ giống như các từ chỉ mức độ “vô cùng”, “rất”, “lắm”...
(Theo Hữu Đạt, Sai, đúng trong cách dùng từ Hán Việt
và vấn đề "giải pháp").
Trên thực tế, các từ gốc Hán khi du nhập vào tiếng Việt
hầu hết đã bị biến đổi do áp lực của cấu trúc tiếng Việt.
Chỉ sau một thời gian, bản chất Hán của các từ này đã
bị tiếng Việt đồng hóa để không còn cái vẻ nguyên dạng ban đầu. Hoặc là nó bị
biến đổi về ngữ âm, hoặc là nó bị biến đổi về ngữ nghĩa theo cách tri nhận mới
của người Việt Nam qua cái vỏ âm thanh ban đầu. Hoặc nhiều tiếng Hán Việt bị hiểu
sai; lâu dần, cái nghĩa hiểu sai được phổ biến hơn nghĩa tinh xác và do đó được
công nhận là nghĩa đúng (Theo Bùi Đức Tịnh, Ngữ pháp Việt Nam giản dị và thực dụng).
Những
lỗi thường gặp
Nhiều trường hợp người sử dụng chưa nắm được nghĩa của
từ Hán Việt, khiến từ trở nên vô nghĩa hoặc dẫn đến sai trầm trọng.
Dùng từ sai vì không hiểu nghĩa gốc Hán Việt: nhầm lẫn
giữa hai từ “khả năng” - năng lực của con người có thể làm được việc gì đó với
“khả dĩ”. Từ “quá trình” là đoạn đường đã đi qua: “quá” là đã qua, “trình” là
đoạn đường. Nếu viết từ “quá trình” dùng ở thì tương lai “quá trình thực hiện
công tác sắp tới của tôi sẽ rất thuận lợi” là sai.
Có thể dùng từ “tiến trình” cho câu trên. Ta có thể viết
“hôn lễ” (lễ cưới), “hôn phối” (lấy nhau). Nhưng nếu nói hôn phu, hôn thê, hôn
quân lại mang nghĩa là người chồng u mê, người vợ u mê, nhà vua u mê...
Sai vì không phân biệt được tiếng Hán Việt với tiếng
thuần Việt (tiếng Nôm): chữ “góa phụ” trong sách báo chỉ người đàn bà có chồng
đã chết. Tính từ “góa” là tiếng Nôm không thể đặt trước danh từ “phụ”. Nên gọi
là gái góa (toàn Nôm), hay “quả phụ” (toàn Hán Việt).
Từ “nữ nhà báo” thường được dùng trên các phương tiện
truyền thông. Nhà báo là tiếng Nôm nên phải dùng văn phạm xuôi là “nhà báo nữ”,
hoặc dùng ba từ Hán Việt là “nữ ký giả” hay “nữ phóng viên”.
Lạm dụng và dùng sai từ Hán Việt khá phổ biến khi kết
hợp từ “tặc” (ăn cướp) với các từ khác như: tôm tặc, vàng tặc, cà phê tặc, đinh
tặc... để chỉ những tên ăn trộm.
Cách dùng này sai về ngữ pháp (từ đơn thuần Việt không
thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một từ kép), sai về nghĩa: tặc là ăn
cướp, đạo là ăn trộm. Thay vì sính dùng từ Hán Việt, ta có thể nói là: bọn ăn
trộm tôm, trộm vàng, trộm cà phê...
Hiện từ “đinh tặc” đang được nhiều báo chí dùng với tần
suất lớn với nghĩa chỉ bọn rải đinh trên đường, trong khi “đinh tặc” chỉ có
nghĩa là bọn ăn cướp đinh, chỉ bọn rải đinh trên đường là sai nghĩa...
Nhiều từ Hán Việt hiểu sai nên viết sai: từ “tham
quan” nghĩa là đi chơi để ngắm cảnh thay từ “thăm quan”; “chấp bút” viết thành
“chắp bút”, “lặp lại” viết thành “lập lại”, “trùng lặp” viết thành “trùng lắp”,
“hằng ngày” viết thành “hàng ngày”, “thập niên” viết thành “thập kỷ”, “điểm yếu”
thành “yếu điểm”...
Tất nhiên, khi xem xét tới tính sai, đúng của việc
dùng từ Hán Việt, việc đối chiếu từ nguyên là việc làm có phần cứng nhắc, dễ dẫn
đến việc làm mất đi tính năng động của từ Hán Việt với tư cách là một sự sáng tạo
rất linh hoạt của người Việt Nam.
Từ Hán Việt tuy có nguồn gốc từ tiếng Hán, nhưng nó
đích thị hoàn toàn là của người Việt Nam, được dùng theo cách của người Việt
Nam. Nên hiểu đúng và dùng đúng ngữ nghĩa của từ Hán Việt là chúng ta đang góp
phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, bổ sung, làm giàu thêm vốn từ vựng
phong phú, nối dài nét đẹp văn hóa và chữ viết của người Việt.
Vai trò của báo chí trong chuẩn hóa và giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt có ý nghĩa quan trọng. Bởi tiếng Việt là một trong số
gần 50 ngôn ngữ đang được sử dụng rộng rãi nhất trái đất. Không phải tự dưng tiếng
Việt có thể tồn tại và phát triển, trong khi đã có hàng ngàn ngôn ngữ và chữ viết
của các dân tộc bị hủy diệt theo dòng chảy phát triển của nhân loại.
Lê Thị Bích Hồng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét