Nguồn:
https://www.bbc.com/vietnamese/forum-50425379
https://www.bbc.com/vietnamese/forum-50425379
Bài
đã đăng trên trang cá nhân, thể hiện quan điểm riêng của tác giả Vương Trí
Nhàn, nhà nghiên cứu văn hóa ở Hà Nội.
Nhà
nghiên cứu văn hóa, văn học Vương Trí Nhàn
NGƯỜI
VIỆT VÀ TRIẾT LÝ ‘GIÀU NHANH, ĐI TẮT, GỒM CẢ PHÁ HOẠI’
Vương
Trí Nhàn
Qua
câu chuyện 39 người thiệt mạng tại Anh, tôi thấy nổi lên nhiều vấn đề có liên
quan đến đến toàn thể cộng đồng Việt hiện nay, trước tiên là câu chuyện cách kiếm
sống của con người và triết lý ẩn sau cách kiếm sống đó.
Cụ thể là người Việt hiện rất kém về mặt nghề nghiệp để
tạo nên năng suất lao động cần thiết trong khi đó nhu cầu có một cuộc sống tiện
nghi lại quá mạnh mẽ và quyết liệt, khiến cho người ta sẵn sàng làm bậy kiếm tiền,
những người vốn ngại ly hương thì sẵn sàng ra đi tìm cách kiếm ăn ở nước ngoài
dù đôi khi phải đổi lấy mạng sống.
Nhiều
người dân Nghệ Tĩnh sẵn sàng bán đất để kiếm đủ tiền đi nước ngoài,
và gửi tiền về cho người thân mua những căn biệt thự nguy nga.
và gửi tiền về cho người thân mua những căn biệt thự nguy nga.
Nên biết thêm tình trạng kém cỏi về mặt nghề nghiệp là
tình trạng của người Việt trong lịch sử nó khiến cho một quyển sách như "Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn"
đã viết đại ý 1/3 ba người dân ở đây là kẻ cướp, 2/3 còn lại sống dưới mức
nghèo khổ
Qua đó cho thấy chiến tranh đã tàn phá xã hội Việt Nam
như thế nào cụ thể là làm hỏng con người Việt đi như thế nào.
Tôi cũng cần thấy thêm là trong việc kiếm sống hiện
nay có một triết lý phổ biến ngấm ngầm chi phối người Việt "chỉ có những việc không làm được chứ không có những việc không được
làm"
Người
lao động VN - hình minh họa
Đây cũng là dấu hiệu của sự tàn phá con người về mặt đạo
đức do chiến tranh mang lại.
Nó khiến chúng ta rất khó hội nhập với thế giới hiện đại.
Kiếm sống chỉ là cách nói nôm na của khái niệm "trình độ sản xuất" của một xã
hội. Trong bài này tôi muốn đi từ hoạt động của những người dân mà nghĩ dần lên
tới các vấn đề tồn tại của xã hội. Đề tài quá rộng và cũng là quá sức với bản
thân, tôi đưa ra ở đây với ý nghĩ "nếu
không phải chúng ta thì ai sẽ nghĩ thay ta đây" và rất mong các bạn
cùng nghĩ.
Kiếm
sống bằng mọi giá
Thời tiết oi ả, đang nóng bỗng lạnh đang lạnh bỗng
nóng, nhiều nhà đêm trước vừa mở điều hoà, đêm sau đã phải lôi chăn mùa rét ra
đắp, khí trời năm nay ở đồng bằng sông Hồng độc quá!
Chẳng những con người nhoai ra mà đến cả các giống vật
cũng khó sống: ở vùng ngoại ô tôi đang ở, sáng sáng trên mặt hồ vô khối cá chết
nổi lềnh bềnh.
Có cá chết là có người đi vớt, bởi thứ cá này đun lên
còn cho lợn cho chó ăn được.
Mấy người dạy sớm lại chuẩn bị sẵn vợt, cá vớt được dễ
đến cả rổ.
Đến lượt một ông già nọ, lộc giời chẳng còn bao nhiêu,
đi lui đi tới ngắm nghía mãi mới thấy một hai con sót lại.
Cá thì nằm khá xa mà trong tay ông không có lấy một
cái que cái sào nào cả. Nhưng ông không chịu.
Thoạt đầu thấy ông nhặt gạch hòn to hòn nhỏ vun thành
đống lùm lùm tôi chưa hiểu để làm gì. Bỗng nghe tũm tũm gạch ném xuống nước,
thì ra ông lấy gạch để lái cho cá trôi dần vào bờ. Liên tiếp, có đến vài chục
viên gạch được sử dụng. Khi mùi cá chết nồng nặc xông lên thì cũng là lúc tôi
nghe cái túi nilon trong tay ông già sột soạt.
Có thế chứ. Thoát làm sao được khỏi tay ta, hỡi những
chú cá không biết mới chết đêm qua hay từ hôm kia mà thân hình đã mủn cả ra
trên mặt nước.
Tôi đứng nhìn ông già lấy gạch dồn cá mà nghĩ đến cách
kiếm sống của con người hiện nay. Nào ông có khác với nhiều thanh niên trai trẻ
háo hức vào đời, nhất là những thanh niên nông thôn đang đổ lên đô thị:
- Tay trắng lập nghiệp.
- Nghề ngỗng chẳng có.
- Đồ nghề không tức là công cụ không.
- Có miếng ngon miếng sốt thì lớp người đi trước dành hết
cả rồi.
Thành thử có gì là lạ khi họ chỉ còn cách lăn xả vào bất
cứ việc gì người ta thuê mướn dù là mồ hôi đổ ra nhiều mà đồng bạc thu về chẳng
khác mấy con cá trôi nổi trên mặt hồ.
Trách
họ thì oan cho họ quá.
Thế nhưng cái đáng sợ nhất vẫn là cái "triết lý" toát lên từ cái việc
kiếm sống đơn giản này.
Nhìn đống gạch được ném xuống nước, tôi cứ định nói với
ông già rằng như thế tức là trực tiếp phá huỷ môi trường.
Ai cũng thích thì làm, hôm nay mươi viên mai vài chục
viên ném xuống hồ, hỏi còn gì là cái mặt nước thân yêu?
Chẳng phải là chỉ mấy năm nay nước hồ đã đen dần vì nước
cống, lòng hồ đã bồi cao lên vì các loại phế thải xây dựng và rác rưởi ?
Nhưng
tôi không mở miệng nổi.
Từ cái việc mà ông già thản nhiên và hào hứng theo đuổi,
tự nó đã toát ra một lời tuyên bố: để kiếm sống, con người ta có quyền làm bất
cứ việc gì họ có thể làm, bất kể là có hại cho người chung quanh hoặc tàn phá
môi trường sống chung quanh đến như thế nào.
Lại nhớ nhà văn Nga Anton Chekhov (1860 - 1904) từng
có một đoản thiên kể chuyện một người mugich hồn nhiên tháo đinh bù loong trên
đường sắt về rèn mấy cái đinh thúc ngựa. Sắt ê hề ra đấy mà làm gì, tháo một
vài cái có sao, không tàu hoả thì đi bộ đã chết ai? - ông ta lý sự.
Còn ở ta những năm chiến tranh có những người coi kho
phá cả một cỗ máy để lấy mấy cái vít.
Xét về mặt lý lẽ mà người trong cuộc đưa ra để biện hộ,
giữa cái hành động của người mugich Nga thế kỷ XIX với việc người Việt thế kỷ
XXI đã và đang làm:
- rải đinh trên đường cao tốc,
- bán đủ các loại rau quả vừa phun thuốc trừ sâu,
- đá bóng vào lưới nhà để thực hiện hợp đồng bán độ,
- rồi chặt phá rừng vô tội vạ,
- rồi mua bán bằng cấp và chức sắc,
- rồi kê đơn cho bệnh nhân toàn những thuốc đắt tiền để
ăn hoa hồng,
- rồi đưa ma tuý vào trường học rủ rê con nhà lành vào
con đường nghiện ngập cốt bán được ít hàng quốc cấm...
Các hành động ấy bắt nguồn từ những ý nghĩ có khác
nhau là bao?
Ở đâu thì cũng cùng một lý lẽ ấy, lý lẽ của ông già
ném gạch dồn cá, vốn đã bắt rễ trong tiềm thức nhiều người chúng ta hôm nay.
Khi độ nguy hiểm của nó ta còn chưa cảm thấy rõ ràng
thì làm sao đủ sức để chống lại?
Từ
kiếm sống đến hình thành tính cách
Từ trường hợp của những ông già ném cá ở phần trên,
tôi xin thử nêu lên một vài đặc điểm làm nên cách kiếm sống dân ta xưa và nay:
1. Từ thời tiền hiện đại trong cuộc mưu sinh, dân ta
còn đang dừng lại ở tư duy hái lượm tức là sẵn có cái gì của thiên nhiên thì nhặt
lấy mang về.
Con người trong xã hội đa số là vô nghề nghiệp và
không đạt tới đỉnh cao trong việc làm nghề.
Các ngành nghề không được chăm lo cải tiến nên chỉ có
giậm chân tại chỗ.
Khi tiếp xúc với các nền kinh tế khác chúng ta lại
không chịu học hỏi đàng hoàng kỹ lưỡng nên cứ kém mãi.
2. Chiến tranh là nhân tố chủ yếu chi phối khuôn mặt của
xã hội Việt Nam trong suốt trường kỳ lịch sử.
Trong các thế kỷ trước, nhất là hai thế kỷ XVII -
XVIII sa vào nội chiến, ở ta, việc sản xuất nông nghiệp chỉ phát triển trong mức
độ bảo đảm cho các cuộc chiến tranh giữa các phe phái được duy trì. Vậy mà nạn
đói vẫn luôn luôn xảy ra. .
Điều này càng rõ nếu xét tình hình từ 1945 tới nay.
* Trong chiến tranh bao nhiêu con người giỏi giang đổ hết
cả ra mặt trận.
- Đến cả lương thực cho người dân miền Bắc cũng phải nhập
của nước ngoài.
- Súng ống đạn dược xe pháo dùng trong chiến tranh là của
ngoại nhập tất.
- Ở hậu phương mọi công việc như xây dựng nhà cửa đường
xá hoàn toàn ngưng trệ.
* Sau chiến tranh hầu hết chúng ta là những kẻ vô nghề
nghiệp.
Năm
1975: tác giả nói về người Việt Nam rằng
'sau chiến tranh hầu hết chúng ta là những kẻ vô nghề nghiệp'.
'sau chiến tranh hầu hết chúng ta là những kẻ vô nghề nghiệp'.
Để đắp điếm che giấu sự thiếu thốn này xã hội chỉ tổ
chức ra một nền giáo dục "thiếu
tháng", "bất thành nhân dạng", còn cả việc học hỏi về nghề
nghiệp lẫn học kiến thức cơ bản đều chắp vá qua loa.
Trong khi không biết xấu hổ trước trình độ sản xuất nội
địa ở mức lè tè thì ta lại đang lao đầu hưởng thụ, lấy việc kiếm được hàng hóa
sản xuất từ các nước khác làm niềm vui thích.
3. Có lần trên mạng thấy loan tin các cơ quan khoa học
quốc tế người ta đánh giá rằng nước mình là một xứ mà việc quản lý các tài
nguyên khoáng sản là loại đội sổ, kém nhất thế giới.
Không cần có mặt ở các loại mỏ, chỉ từ tình hình chung
cũng đoán ra hết.
Những người chủ trì công việc làm ăn ở các vùng tài
nguyên đó, theo sự nhìn nhận của tôi thật cũng chẳng khác gì mọi người dân thường.
Ta
chỉ trách những quan chức này là họ tham nhũng.
Ta quên rằng họ cũng đang là những người kiếm sống
không có nghề ngỗng gì hết, và kiếm sống với bất cứ giá nào.
Trong khi khai thác tài nguyên theo kiểu thổ phỉ vậy,
tự họ đã tước đi khả năng tồn tại và phát triển của cái nguồn lực đáng lẽ nuôi
sống cộng đồng và chính họ trong một thời gian lâu dài. Họ cũng từ bỏ luôn cái
cơ hội tốt để họ và con cháu họ tử tế nên người.
4. Một đặc điểm khác chi phối việc kiếm sống của người
mình, nhất là con người hiện đại.
Là ta có lối suy nghĩ rất thiển cận, trong khi phấn đấu
để vượt lên số phận nghèo khó đã không chịu tự nhận lỗi về mình không chịu
thành tâm học hỏi theo hướng chuyên môn hóa…mà lại chỉ muốn đi tắt đón đầu nhăm
nhăm tính toán sao cho có thể đạt đến mọi mục đích tầm thường của mình bằng Con
đường Ngắn nhất.
Nhân danh nghèo khó, cho là mình có quyền làm mọi điều
xấu xa và sẽ chẳng có thần phật nào trừng trị chúng ta cả.
Tiếp đó là bày ra đủ thứ lý luận để cãi trắng cho sự
hư hỏng của mình.
Cả một đội quân tuyên truyền góp phần vào việc tự biện
hộ này.
Chúng ta đã đi tới sự tự lừa dối tự lúc nào không biết.
Đến lúc này thì người ta nói rằng cả con người và xã hội
đã vô phương cứu chữa.
Vương Trí Nhàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét