Bài viết này như những lời tâm sự của tôi dành cho người mẹ thân yêu của mình, không trau chuốt văn chương vì tôi không có năng khiếu đó. Tôi chỉ biết viết bằng con tim của một người con yêu thương mẹ.
Hôm nay khi cơn bệnh alzheimer quái ác đang làm cho mẹ mất đi nhiều trí nhớ, tôi chỉ ước mong khi nghe hay đọc bài nầy mẹ sẽ cảm nhận được một phần trong những gì tôi ấp ủ là tôi thật sự hạnh phúc lắm rồi.
Lê Nguyên Tuấn
“THẦM LẶNG ”
Người ta hay cảm tác thơ chứ ít ai cảm tác đoạn văn
hay là bút ký, nay tôi lại làm chuyện lạ lùng đó .Chung quy là tôi đang “feeling”, đang cảm nhận rất sâu lắng từ
bài viết của người con gái nhà văn Doãn Quốc Sĩ viết về mẹ mình.
Thật là một sự khập khiễng khi so sánh với sự nghiệp của
nhà văn Doãn Quốc Sĩ, nhưng ba mẹ tôi vẫn có những sáng ngời trong nhân cách sống
và dấn thân với xã hội.
Tôi viết bài này để dâng tặng người mẹ yêu thương của
tôi, đồng thời thể hiện sự đồng cảm với con gái của nhà văn Doãn Quốc Sĩ khi cả
hai bà đang lâm vào căn bệnh alzheimer quái ác. Hôm nay, tôi viết với tất cả thổn
thức, đau nhói trong trái tim và cay xè trên đôi mắt. Nước mắt chỉ chực trào ra
khi những kỷ niệm của hàng chục năm về trước chợt tràn về.
Mẹ yêu!
“Thầm
lặng” là tính từ mà chưa bao giờ con cảm nhận đầy đủ ý
nghĩa của nó cho đến hôm nay con dùng để viết về mẹ. Đời Mẹ là một cuộc đời “thầm lặng” trong gia đình nhỏ nhoi bên
chồng và các con đầy biến động theo thời cuộc. Mẹ đã “thầm lặng” trong sự nghiệp không nhỏ của ba.
Con biết mẹ sinh ra trong một gia đình giàu có nổi tiếng
của một tỉnh lỵ miền Trung. Nếu mẹ đi theo con đường thương mãi như bên ngoại;
nếu mẹ làm vợ của người thương gia thì cuộc đời mẹ sẽ nhẹ nhàng hơn. Mẹ sẽ như
các dì của con sống trong sự giàu sang và nhung lụa. Nếu như thế, Mẹ không phải
chịu những lần suýt đứng tim vì con đường hoạt động xã hội của ba con. Mẹ không
phải hằng đêm khuya khoắt trông ngóng chồng khi ba con phải băng mình trong
giông bão, trong lụt lội, trong chiến cuộc để dành lấy mạng sống cho đồng loại.
Mẹ không phải mang phận “vợ tù cải tạo”
tủi thân suốt nhiều năm trời sau biến cố 1975.
Nhưng con biết mẹ yêu điều đó. Mẹ yêu mẫu người sống
có lý tưởng, có trách nhiệm với đất nước và gia đình như ba con. Nếu cho mẹ chọn
lựa một lần nữa, con tin chắc mẹ vẫn chọn ba con, phải không mẹ?
Với một thân hình mảnh mai, mẹ bước vào đời với ngành
sư phạm. Những tưởng cuộc đời mẹ sẽ bình an trên bục giảng với thiên chức gieo
mầm đẹp, ý tưởng hay để lớp trẻ biết cách sống có ích cho xã hội. Nhưng cuộc đời
đâu có cho mẹ đeo đuổi những ước mơ nhỏ nhoi đó.
Chiến sự Hạ Lào (1971) bùng nổ ác liệt. Con còn nhớ cả
một tháng trời ròng rã mẹ âm thầm cùng ba vào bệnh viện Quảng Trị để phụ băng
bó, săn sóc cho các chiến binh trở về đầy máu me, què cụt. Bệnh viện như quá tải
khi phải đón nhận thương binh mỗi giờ. Có những đêm, con ngồi ngoài xe chờ ba mẹ
trong bóng tối - lúc đó con chỉ mới 6 tuổi. Ở tuổi đó thì còn nỗi khiếp sợ nào
hơn khi những tiếng kêu la, rên xiết cứ đưa tới tai con trong đêm vắng.
Rời bỏ Quảng Trị trong đổ nát 1972, vào Đà Nẵng tưởng
rằng gia đình sẽ có cuộc sống an toàn khi hàng đêm khỏi phải nghe tiếng đại bác
dội về “cắc bụp .... bbbbùm” như
trong bài hát Đại bác ru đêm của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Nhưng rồi không phải
thế, mẹ lại phải âm thầm thao thức không ngủ, lo âu trước những công việc mới của
ba…
Trong vai trò chủ tịch Hồng Thập Tự Vùng I, điều phối
hoạt động cứu trợ tỵ nạn và thiên tai của 5 tỉnh miền Trung (từ Quảng Ngãi đến
Quảng Trị), ba tôi hầu như không còn thời gian nhiều cho gia đình. Bên cạnh đó,
việc tái thiết lại các trường học tại Quảng Trị sau khi có lệnh hồi cư cũng chiếm
hết thì giờ của ba. Ba tôi cùng các đồng nghiệp chia nhau về giảng dạy trên mảnh
đất còn ngổn ngang đổ nát. Mỗi tuần ba chỉ ở bên mẹ con tôi từ một đến hai
ngày. Thậm chí đôi lúc đang ngồi dùng cơm với gia đình mà được tin gọi khẩn cấp
như bão lụt, thiên tai,… là ba tôi lên đường ngay.
Ngày đó, ngôi nhà chúng tôi tại Yên Bái (Đà Nẵng)
không lúc nào là không bận rộn. Ngôi biệt thự (village) đó khá lớn và đẹp. Nó
không chỉ là nhà ở của gia đình chúng tôi mà còn là trụ sở chính của Hồng Thập
Tự miền Trung cho nên khách vào ra liên tục. Hầu như ba tôi ở nhà ngày nào là
ngày đó có khách, khi thì ba tôi làm việc với các trợ lý của ông; khi thì tiếp
khách nước ngoài. Họ là những người làm việc trong Hồng Thập Tự quốc tế nên đủ
mọi quốc gia như Pháp, Mỹ, Na Uy, Thụy Sĩ, v.v... Thế là mẹ tôi phải vào vai đầu
bếp bất đắc dĩ. Mẹ phải làm sao cho khách hợp khẩu vị, thoải mái. Nhiều cuộc họp
khẩn cấp thâu đêm, bà vẫn âm thầm vui vẻ chăm sóc chồng lẫn khách chu đáo.
Ngày đó, những lúc bên nhau luôn là những giây phút hạnh
phúc của gia đình.
Thế rồi một ngày, một khoảnh khắc, một dấu mốc và một
khoảng thời gian 10 năm cay nghiệt (1975-1985) đã đổ xuống đôi vai mảnh mai của
mẹ tôi. Đó là khoảng thời gian mà cuộc đời tôi không bao giờ quên được. Không
quên không phải vì tôi quá khổ sở hoặc không được đầy đủ như nhiều đứa trẻ
khác. Không quên được, bởi những hình ảnh mà mẹ tôi phải chịu đựng, hy sinh, nhẫn
nhục, tủi thân,… và hình ảnh những ngày tháng đó đã ám ảnh tôi cả cuộc đời này.
Cứ nghĩ đến chuỗi ngày đó là tôi muốn thét gào lên “Sao không cho anh em tôi trưởng thành sớm để được kề vai gánh vác,
chia sẻ bớt nhọc nhằn cho mẹ?” Nhưng câu hỏi vẫn chỉ là câu hỏi vì ngày ấy
bầy con của mẹ còn quá nhỏ, tôi lớn nhất: 10 tuổi, còn các em tôi đứa 9 tuổi, đứa
7 tuổi và đứa nhỏ nhất mới 3 tuổi.
Trở thành thân phận vợ tù cải tạo, suốt mấy năm trời
bao oan khiên, cực khổ mẹ âm thầm chịu đựng. Từ một người phụ nữ thuần thành,
chưa bao giờ phải bươn chải cuộc sống nhầy nhụa của cuộc đời, nay mẹ vừa dạy học
vừa phải tập tành mua bán linh tinh trước thềm cửa nhà.
Thêm một điều khổ nạn là hồi đó với đồng lương không đủ
sống của một giáo viên, mẹ còn phải có bổn phận đi dạy không lương buổi tối của
cái gọi là “xóa nạn mù chữ” mỗi tuần
3 đêm. Anh em chúng tôi còn quá nhỏ lại sợ ma nên kéo hết nhau ra trước cửa nhà
mỗi tối để chờ mẹ về. Từ xa xa, thấy bóng dáng mẹ còm cỏi, liêu xiêu bước về là
chúng tôi chạy ùa đến, đứa ôm, đứa níu lấy mẹ trong nỗi mừng vui…
Có lẽ vì cuộc sống phải trải qua gian khổ sớm nên đàn
con của mẹ có ý thức hơn lớp trẻ cùng lứa thời bấy giờ, chúng tôi làm bất cứ gì
hầu phụ giúp mẹ. Mười một tuổi, hàng ngày tôi đã nấu được bữa ăn vài ba món cho
mẹ đỡ nhọc nhằn. Mấy đứa em còn lại thay phiên nhau thổi lửa và nấu nồi cơm. Đứa
em kế tôi, lúc đầu dấu mẹ rang đậu phụng vào sân vận động Chi Lăng bán kiếm tiền
phụ giúp gia đình. Tôi còn nhớ như in khi biết chuyện đó mẹ đã chạy vội vào
phòng khóc nức nở.
Cái tủi thân đôi khi còn đau đớn hơn cả thiếu thốn vật
chất. Hằng năm, cứ đến ngày giỗ ông ngoại, mẹ dẫn anh em chúng tôi còm cỏi, đen
đúa lên nhà cậu cả để cúng ông. Mỗi bữa ăn ở nhà cậu là một bữa cỗ - bằng một
tháng sinh hoạt, ăn uống của gia đình tôi khi đó. Sau này mẹ chỉ lặng lẽ đi giỗ
ông một mình mà không mang con cái theo, có lẽ bà tủi thân.
Ba tôi cải tạo tại An Điềm - một nơi rừng thiêng nước
độc cách Đà Nẵng chừng vài chục cây số. Hàng tháng, cứ vài hôm trước ngày đến hạn
kỳ đi thăm nuôi, mẹ tôi lại bận rộn. Mẹ bán đi vài phân vàng trong số của cải để
dành nhỏ nhoi để có tiền mua sắm đi thăm ba. Mẹ làm muối ruốc sả, làm thịt chà
bông, mua lương khô (hàng của Tàu hồi ấy). Những đêm đó, anh em chúng tôi ngồi
quây quần bên mẹ, đứa thì lo trộn chảo muối sả cho chín đều kẻo bị khét; đứa
thì lo cho thịt chà bông vào lon “sữa guigo”. Ngoài anh em tôi, còn có bà chị
con bác ruột - chị Mimi - phụ mẹ tôi một tay.
Trời vừa tờ mờ sáng, khoảng 4 giờ mẹ đã đánh thức
chúng tôi dậy, mặc áo quần tươm tất để chuẩn bị lên đường thăm nuôi ba. Mẹ cho
chúng tôi đi hết - ngay cả đứa em út tôi mới 3 tuổi. Mẹ biết ba rất muốn gặp mặt
đầy đủ các con của ba. Một chiếc xe honda thồ thường hay chở cá, được thuê chở
cả 5 mẹ con cùng giỏ hàng thăm nuôi. Bây giờ tôi cũng không thể hình dung được
làm sao một chiếc xe honda hai bánh lại có thể chở hết sáu mạng người (kể cả
người xe thồ). Chúng tôi ngồi vắt vẻo đủ cách trên hai cái thúng dùng chở cá.
Khoảng cách chỉ vài chục cây số mà đến trưa mẹ con tôi mới đến trước cửa trại,
vì xe phải đi thật chậm.
Vượt qua chặng đường đầy những con dốc, quanh co của rừng
núi để chỉ được gặp nhau trong giây lát dưới sự giám sát của cán bộ trại. Trong
thời gian 30 phút thì nói được gì? Chúng tôi còn nhỏ nên được giám thị cho đến
gần ba. Khi ôm ba, lồng ngực tôi như bóp nghẹt, cảm giác khó thở, muốn chực
khóc thét lên. Còn mẹ tôi đứng đó, nhìn ba tôi, nhìn cảnh cha con quấn quít mà
nước mắt ràn rụa trên đôi mắt sâu hoắm qua mấy đêm liền không ngủ.
Vậy đó, suốt 3 năm trời chưa bao giờ mẹ tôi vắng một lần
thăm nuôi chồng dù nhiều khi gia đình khá túng thiếu. Mẹ không xin xỏ, không
than vãn, không cầu cạnh ai, mẹ vẫn cố hết sức mình để đùm bới cho ba bằng tất
cả sự dành dụm, chắt chiu.
Rồi gia đình chúng tôi lần lượt xuôi Nam tìm đường vượt
biên. Mẹ lại lo âu, mất ngủ để lo cho anh em tôi: đứa 15, đứa 14 tuổi ra đi mà
đứa nào cũng còn quá ngây thơ, khờ dại. Lo lắm chứ! Làm sao mẹ tôi không lo khi
bao nhiêu nguy hiểm đang rình rập hai đứa con còn bé bỏng của mình. Phần lo con
bị bắt rồi tù đày, phần sợ sóng biển mênh mông lành ít dữ nhiều. Mẹ đọc kinh lạy
Phật cầu nguyện hằng đêm vào mỗi chuyến đi của chúng tôi. May mắn chỉ đến với
gia đình tôi ngày đó được một lần là người em trai tôi đến bến bờ tự do ở cái
tuổi 14. Chuyến đi này có cả tôi, khởi hành từ Sông Ông Đốc - Cà Mau. Vì lạc điểm
tập trung nên cả nhóm bị công an đuổi bắt, mạnh ai nấy chạy tán loạn, tôi phải
tìm đường về Sài Gòn trong khi em tôi lên được tàu và đến miền đất hứa. Hai
tháng sau, mẹ lại dẫn tôi về Trà Vinh. Khi tìm được mối ghe cho tôi, mẹ yên tâm
vì lời hứa hẹn ngon lành nhưng rồi số người vượt biên chuyến ấy lại bị bắt trọn.
Tuy tôi còn tuổi vị thành niên nhưng cũng bị ngồi tù, mẹ phải xoay xở, mấy
tháng sau mới chuộc tôi ra được. Không ngờ con người mô phạm, hiền lành thế mà
khi cần mẹ tôi cũng có những quyết định can đảm, táo bạo đến không ngờ.
Từ những thất thoát, tốn kém khi lo cho hai anh em tôi
vượt biên, gia đình tôi thật sự lâm vào cảnh khánh kiệt vào những năm 80 – 83.
Còn lại 3 anh em chúng tôi mỗi đứa phải tá túc mỗi gia đình mà ba mẹ tôi gởi gắm.
Cứ đến cuối tuần, chúng tôi vội đón xe bus về quận Bình Thạnh để sum họp với ba
mẹ.
Hằng ngày tôi biết ba mẹ tôi ăn uống khá đạm bạc vì việc
làm thường ít gặp may. Hơn nữa, cách làm ăn của ba mẹ tôi hiền quá - theo kiểu
nhà sư phạm - nên luôn bị lừa và mất mát. Vậy mà khi đàn con ùa về, lần nào mẹ
cũng ráng làm bữa cơm thật ngon miệng cho các con ăn.
Một căn phòng trước đây người ta dùng làm văn phòng, tạm
thời họ để cho ba mẹ tôi sử dụng. Cái giường ngủ của ba mẹ tôi ngày đó thì
không thể hình dung được. Từ những thanh gỗ tạp phế thải, ba đã tự chế thành
chiếc giường bằng cách kết nối chúng lại với nhau. Đêm nằm ngủ, sáng ra nhức mỏi
cả lưng vì độ gập ghềnh của mặt giường.
Cả gia đình chúng tôi khi đó còn lại 5 người (em trai
tôi đã đến được Hoa Kỳ), đêm nằm dùng chung một tấm mền dù lính hồi xưa. Bởi vậy
khi tôi trở mình thì đầu bên kia ba tôi không có chăn đắp. Đến mùa nước lớn, nửa
đêm đang say ngủ cả nhà phải vùng dậy vì nước lên cao, thấm ướt đến lưng.
Ông Trời tiếp tục thử thách ba mẹ tôi. Sau nhiều lần
làm ăn thất bại, ba mẹ tôi quyết định xa Sài gòn về vùng kinh tế mới An Hạ. Lại
một chặng đường gian truân mới mà ông Trời mãi trêu cợt gia đình tôi. Nhiều lúc
tôi oán hận ông Trời, bấy nhiêu đó chưa đủ làm mẹ tôi mòn mỏi, cực khổ sao? Nơi
vùng đất ấy, nước phèn làm cho làn da vốn trắng sáng của mẹ tôi xấu đi nhiều.
Đã khổ lại phải chịu thêm cái cằn cỗi của nắng gắt và phèn chua. Ba tôi phải đi
gánh mía trong khi mẹ tôi hàng ngày đạp xe ra chợ mua bán kiếm ít tiền lời để
lo bữa ăn cho gia đình. Những lúc trời mưa lớn, đường sá đầy sình bùn dơ dáy, mẹ
vẫn vội vã đạp xe vượt qua quãng đường lầy lội ấy để kịp về nhà với chồng con.
Hôm nay hình ảnh ấy bỗng dội về làm con đau điếng cả
người. Mẹ ơi!!!
Mẹ! Mẹ ơi! Từ ngày được làm con của mẹ đến nay đã gần
50 năm, con chưa nghe một lời than thở của mẹ. Con cũng chưa bao giờ thấy mẹ gắt
gỏng hay nói một câu làm phiền người khác, nói gì đến chuyện mẹ làm mất lòng
ai.
Con người không là thần thánh, đôi khi quá mệt mỏi, khổ
sở mình cũng dễ cáu gắt với những người chung quanh. Mẹ tôi thì không và không
bao giờ dù chỉ là lời nói làm buồn người khác.
Sống cho đàn con thì mẹ quá tuỵệt vời; sống cho chồng
thì không làm sao nói hết những yêu thương, hy sinh mà mẹ dành cho ba. Ngày ba
con bị căn bệnh hiểm nghèo mà bệnh viện chê, mẹ con mình đạp xe đèo nhau trong
cái nắng gắt, cái mệt lả để đi gõ cửa từng nhà và bác sĩ để vay tiền chữa bệnh
cho ba. Hình như quyết tâm của mẹ đã làm ông trời cảm động nên ba vượt qua cơn
bạo bệnh, không uổng phí công lao của mẹ.
Gia đình mình được đổi thay tốt hơn nhiều khi đặt chân
đến Hoa Kỳ. Cuộc sống không còn mệt mỏi như chặng đường dài vừa qua nhưng về mặt
tinh thần mẹ vẫn âu lo. Giấc ngủ của mẹ vẫn chập chờn, bất an vì lo cho con
cái. Mẹ còn lo cho Oanh - vợ của con, không biết khi nào mới được đoàn tụ.
Có những đêm hai mẹ con mình ngồi trò chuyện, con nhớ
như in mẹ cứ đăm chiêu và lẩm bẩm “Mẹ lo cho con Oanh quá! Không biết mọi chuyện
có suôn sẻ không?”. Rồi mẹ thắp nhang lạy Phật cầu cho mọi chuyện được thuận lợi.
Mẹ thương con dâu như là đứa con mẹ mang nặng đẻ đau vậy. Còn Johnny của chúng
con thì quá diễm phúc vì cháu được bà nội dành cho rất nhiều tình yêu thương.
Không bao giờ!
Mẹ ơi! Không bao giờ gia đình bé nhỏ chúng con quên được
những ưu ái, những yêu thương của mẹ dành cho. Bởi vì không bút mực nào, không
ngôn từ nào có thể diễn tả được tấm lòng biển cả ấy.
Mẹ tôi là vậy đó, là một đời âm thầm, lặng lẽ quên
mình để lo cho gia đình, con cháu.
Suốt bao năm trên xứ Hoa Kỳ và đến ngày hôm nay, bao
nhiêu tiền dành dụm được mẹ đã cùng với ba tôi dùng vào việc giúp các em sinh
viên nghèo có điều kiện tiếp tục học. Kết quả là hôm nay đã có lớp đầu tiên ra
trường, trở thành những kỹ sư, bác sĩ,… có ích cho xã hội.
Lại vẫn “thầm lặng”
Mẹ yêu!
Ngày mẹ về thăm gia đình con tại Denver tháng 4 năm
nay, mỗi ngày con viết nhật ký vài dòng về mẹ.
Con được ngắm nhìn mẹ, được chính tay con nấu từng món
ăn ngon cho mẹ; được đùa giỡn với mẹ và cũng có những đêm con lặng lẽ ra hiên
ngồi một mình, nghĩ về mẹ rồi thổn thức thương mẹ.
Con sẽ về một ngày không xa, để được cùng các em xây
cho cho gia đình mình - cho ba mẹ cùng các con của mẹ một “ngôi nhà” vĩnh cửu.
“Ngôi
nhà”
này con muốn nó mang nhiều kỷ niệm một thời với hàng bông giấy của căn nhà cũ
trên đường Trần Hưng Đạo (Quảng Trị); có cây hoa sứ, cây dừa của căn nhà ở Yên
Bái - Đống Đa (Đà Nẵng). Trong những căn nhà ấy, gia đình mình đã từng một thời
sống bên nhau với bao kỷ niệm đẹp.
Một “ngôi nhà”
để con có ngày được trở về bên ba mẹ và mãi mãi không bao giờ xa mẹ nữa.
Ngày đó con sẽ không còn làm người chồng, người cha nữa
mà chỉ mong được làm đứa con bé nhỏ bên mẹ như năm nào; để được nằm ôm mẹ với
giấc ngủ bình an mãi mãi.
Lê Nguyên Tuấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét