Tác giả Hoàng Long Hải
“GIÓ
NAM NON…”
“Gió
Nam non thổi lòn hang cóc…”
Tôi yêu Quảng Trị của tôi vì tôi sinh ra và lớn lên ở
nơi ấy, dù ở đó cảnh sắc có đẹp hay không.
Dù không đẹp, nhưng vì nó là nơi tôi chôn nhau cắt rốn,
nơi tôi lớn lên cùng với gia đình, cha mẹ, anh chị, bà con xóm làng, học hành
vui chơi cùng bạn bè, thì không đẹp, quê hương tôi cũng cứ đẹp vô ngần. Tôi yêu
quê hương tôi là tôi yêu cảnh sắc nơi ấy, tôi yêu người dân ở nơi ấy, không cần
biết ai giàu ai nghèo, ai bần cùng, ai sang trọng. “Chốn quê hương đẹp hơn cả”, sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư nói vậy đấy!
Người dân quê tôi càng nghèo, tôi càng thấy yêu họ
hơn, mà Quảng Trị tôi thì nghèo nhất trong các tỉnh nghèo của miền Trung. Miền
Trung nghèo vì miền Trung chỉ là cái đòn gánh, oằn lên vai chị, vai mẹ, như câu
tục ngữ “đòn gánh đằn vai”. Hai đầu
Nam Bắc mới giàu, hai đầu là hai thúng gạo: “Gạo
Nam, gạo Bắc, ấy đòn miền Trung”. Phạm Duy viết như thế.
Miền Trung nghèo vì “đất cày lên sỏi đá”. “Quê
hương anh, nước mặn đồng chua, quê hương tôi đất cày lên sỏi đá”. Đất ấy chỉ
có thể trồng khoai sắn. Dọc miền Trung, tỉnh nào cũng nhiều khoai sắn, ăn khoai
sắn thay cơm. “Bên nồi khoai mới luộc,
ngát thơm vườn ngâu thưa...” Phan Lạc Tuyên viết như thế khi theo Quân Đội
Quốc Gia “tiếp thu” Bình Định năm
1954.
Quảng Trị có khá hơn không? Về Quảng Trị, Phạm Duy
cũng viết trong “Quê Nghèo”: “Đàn trẻ vui vì nồi cơm ngô đầy”. Cơm độn
với ngô (bắp). Vậy mà bọn trẻ thấy vui vì được ăn no.
Phạm Duy, cũng như nhiều nhà thơ, nhà văn khác, chưa
ai thấy hết cái nghèo của Quảng Trị của tui đâu! Quảng Trị nghèo lắm, nghèo hơn
ăn ngô, ăn khoai, ăn sắn nhiều.
Hồi còn nhỏ, tôi đã từng nghe câu hò (văn chương bình
dân):
Gió Nam non thổi lòn “hang cóc”,
Phận em nghèo nên mồng đóc em khô”
Sách địa lý
gọi là Gió Lào, dân địa phương gọi là gió Nam. Đó là hiện tượng gió Foehn
(“phơn”, gốc từ Fơn, tiếng Đức) ở miền Trung Việt Nam. Theo địa lý địa cầu, nói
chung, nhiều châu lục, có hiện tượng gió Foehn.
Khi ngọn gió được hình thành, vượt qua những vùng núi
cao, làm gió tăng tốc và mất hết hơi nước, nên trở nên khô và nóng, có khi rất
nóng, gây nên nạn cháy rừng. Nhờ có gió Foehn vượt qua dãy núi Alpes nên vùng
Trung Âu về mùa đông được ấm hơn. Ở Mỹ và Canada, gió Foehn vượt qua vùng Rocky
Mountains, có tên là gió Chinook.
Vùng Đông Nam Á, theo sách địa lý của frère Jerôme Lê
Văn Ba, và vài giáo sư dạy ở Khải Định, (tên trước 1957), gió Foehn phát xuất từ
vịnh Thái Lan, thổi dọc theo sườn phía Tây dãy Trường Sơn. Càng lên hướng
Đông-Bắc, gió càng mạnh và khô vì cây rừng Trường Sơn lấy hết nước.
Từ đèo Lao Bảo trở ra Bắc, rặng Trường Sơn thấp xuống,
nên gió quay ngược lại theo hướng Đông-Nam, thổi suốt một vùng, từ phía bắc Thừa
Thiên ra tới Thanh - Nghệ-Tĩnh.
Sách địa lý thường gọi là gió Lào vì gió từ Lào thổi
xuống Việt Nam. Dân địa phương gọi là gió Nam, có lẽ người ta biết gió thổi từ
vùng vịnh Thái Lan ở phía Nam mà lên.
Gió Nam, như đã nói, khô và nóng. Các vùng Thanh Nghệ,
lá chuối bị khô cháy vì hơi nóng của gió. Theo kinh nghiệm của tôi khi còn nhỏ ở
Quảng Trị, gió Nam thổi từ nửa đêm cho tới trưa hôm sau. Gió Nam thổi mạnh, nên
buổi tối, trước khi đi ngủ, mùng đã chằn kín dưới chiếu, vẫn bị gió thổi tốc
lên. Mùa gió bắt đầu từ tháng 5 cho đến tháng 9 (Dương Lịch), mạnh nhất là vào
khoảng tháng 7 tháng 8, khiến nhiệt độ nhiều khi lên đến trên 40 độ C. Cây cỏ đều
khô cháy hết. Do đó, ở Quảng Trị có câu tục ngữ: “Nắng tháng 8, nám trái bưởi”.
Sau khi gió Nam dứt thổi, mùa thu tới và sau đó là Mùa Gió Bấc, tức “Gió Mùa Đông Bắc thổi mạnh trên biển Nam Hải”
như câu tiên đoán thời tiết trên đài Saigon trước kia).
Vì từ đèo Lao Bảo trở ra, dãy Trường Sơn thấp xuống,
gió quặt về phía Việt Nam, nên ngay ở đây, gió thổi mạnh lắm, ngang qua đèo.
Dân địa phương gọi địa điểm gió vượt qua núi là Khe Gió hay Cửa Gió. Gần địa điểm
nầy, có động Ông Đô là căn cứ của Quân Đội Bắc Việt Nam trên đường di chuyển xuống
miền Nam, trên đường Trường Sơn. Các đơn vị tác chiến ở vùng nầy thuộc Sư Đoàn
1 Bộ Binh, các tiểu đoàn Biệt Động Quân 21 và 37 của Quân Đội miền Nam, từng
tham chiến ở Làng Vei và trận Khe Sanh cùng với các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến
Hoa Kỳ năm 1968, không lạ gì với động Ông Đô.
Kế Lang Vei có hai bản làng của người Thượng (người
Vân Kiều hay người Stiêng? Tôi không biết chắc). Hai bản đó tên là Bản Hoong và
Bản Cóc. Đây là những làng du canh du cư, dân chúng rất nghèo.
Theo tôi nghĩ, câu ca dao tôi trích dẫn ở trên, nói là
“Gió Nam non thổi lòn hang Cóc...” là
không đúng. Nếu nói tới Cửa Gió, Khe Gió thì có lẽ câu ca dao nói tới tên hai bản
làng dân tộc thiểu số ở vùng nầy, có nghĩa là “Gió Nam non thổi lòn Hoong, Cóc”, là gió từ Lào thổi qua bản Hoong
và bản Cóc rồi từ đó thổi về Quảng Trị.
Tôi không tin có hang nào gọi là hang cóc. Hang cóc
thì nhỏ, làm sao có gió thổi qua?
Người xưa không mặc đồ lót, nhứt là các “nụ cười sơn cước”. Vậy thì có cái gì giữ
“cái ấy” cho gió Nam khỏi làm cho
khô. Cây lá còn phải khô nữa là!
Nhưng trời ơi! Có cái xứ nào trên đời nầy nghèo đến nỗi
làm cho khô cái ấy. Mà đó là vì “Phận
nghèo” (Phận em nghèo nên...”
Nghèo ăn khoai ăn sắn, ăn độn ngô khoai, có đâu mà nghèo đến cái độ phải khô
cái ấy như vầy như ở quê tôi hỡi trời???!!!
Nói phận nghèo là nói tại Trời. Không phải vì biếng
nhác, ham chơi bời, cờ bạc, phá phách mà nghèo. Nghèo là tại Trời, “Trời làm cơn lụt mỗi năm” hay “trời làm gió thổi mỗi năm”. Thật vậy,
dân Quảng Trị tôi không làm biếng, không ham chơi, không cờ bạc, chẳng qua vì
Trời sinh tôi ra ở đấy, số phận tôi ở đấy, số phận đồng hương, đồng bào tôi ở đấy,
khiến cô sơn nữ than phận nghèo nên “cái ấy”
phải khô....
Để kết thúc, và để rõ hơn cái ý nghĩa tôi trình bày,
xin nhắc lại câu ca dao một cách trọn vẹn và trung thực:
Gió Nam non thổi lòn Hoong, Cóc,
Phận em nghèo nên mồng đóc em khô!”
Hoàng
Long Hải
(Trích lại trong “Một lần về Thủ Đô, Thăm
các vị La Hán”)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét