Nhà thơ Nguyên Lạc
VỀ
CHỮ “BẬU”
Nguyên Lạc
"Bậu"
là tiếng dân dã, tiếng thân yêu của vùng tây nam bộ chúng tôi. Mỗi lần nghe ai
nói, hoặc gặp trong thơ văn là lòng tôi cảm thấy bồi hồi. Tiếng"Bậu"
nầy hình như bây giờ trong nước ít ai dùng, ít ai nhắc đến! Tại sao? Vì quê
mùa? Tôi xin được tìm hiểu và giới thiệu đến các bạn vài bài thơ có liên quan đến
chữ "Bậu" thân yêu nầy.
1. Chữ BẬU trong sách vở
Trong các sách vở khi định nghĩa “Bậu”:
- Bậu: Chữ nôm, nghĩa:
Em, mầy như chữ em bậu, bậu bạn (bạn hữu chung cùng; đi theo nhau, hôm sớm
có nhau), qua bậu (Tao mầy (tiếng nói thân thiết) như lớn nói với nhỏ, chồng
nói với vợ)(1)
- Bậu chỉ người nói chuyện với mình khác phái, có ý
thương mến, thân mật(2)
- Bậu chữ được dùng như tiếng “em”, tiếng gọi vợ, hoặc
nhân tình, hay em bạn”(3)
- Bậu (danh từ)
(xưa): tiếng thân kêu vợ mình.(4)
(Theo Hai Trầu - Lương Thư Trung)
2. Chữ BẬU theo cảm xúc của thi nhân
Xin được trích đoạn ra đầy ý nghĩ, cảm xúc về chữ BẬU
của thi sĩ Lê Văn Trung:
[...
Không biết các nhà ngôn ngữ học giải nghĩa “bậu” như thế nào, tôi vẵn đinh ninh
rằng : dù giải nghĩa thế nào đi nữa cũng không thể lột tả hết ý nghĩa tình cảm
sâu đậm thiết tha mà đầy thương cảm của đại danh từ ngôi hai nầy.
“Bậu
là ai?
“Bậu”
là một thóang gặp gỡ trong đời nhưng làm ta ngây ngất và hình bóng “bậu” in mãi
trong trái tim dào dạt thương yêu của ta.
“Bậu”
là ai?
“Bậu”
là sắc là hương bừng nở một thời trong đam mê say đắm của ta
“Bậu”
là ai?
“Bậu”
là da là thịt là ái ân nồng thắm một đời vợ chồng...]
["Bậu"
Trong Thơ Trần Phù Thế - Lê Văn Trung]
“Bậu” có thể ở đâu đó trong bẽ bàng ngang trái, đã để
lại trong lòng ta trong lòng “bậu” những vết cào xước đủ làm chảy máu trái tim.
“Bậu” đã có thể đã cùng ta đi trọn cõi trăm năm gian
nan-cơ cực-hạnh phúc-khổ đau. Nhưng “bâu” cũng có thể ở đâu đó trong dang dỡ
phân ly. Cho dù “bậu” là ai, một khi ta đã cất tiếng thiết tha gọi “bậu”, thì
cái nghĩa trăm năm, cái tình vạn kiếp cứ mãi với ta lên thác xuống ghềnh. Không
bao giờ ta quên! Không thể nào nguôi quên!
GIỚI
THIỆU SƠ LƯỢC VỀ TRẦN PHÙ THẾ
Xin được giới thiệu đến các bạn anh Trần Phù Thế, người
thi sĩ thường dùng chữ "Bậu" trong các bài thơ của mình; và lạ lùng
thay, anh cũng là người cùng quê, học cùng trường với tôi. Chắc có lẽ chữ
"bậu" này đã ngấm trong máu chúng tôi, người dân dã sống bên bờ sông
Hậu, bên bờ kinh rạch tây nam bộ.
1. Tiểu sử Trần Phù Thế
Trần Phù Thế chào đời tại:
[...Làng Hậu Thạnh thuộc quận Long Phú, tỉnh Sóc Trăng
nằm trên trục lộ từ Sóc Trăng đi Đại Ngãi. Đó là nơi tôi chào đời năm 1943. Ba
tôi làm ruộng và Má tôi buôn hàng xén tại
nhà.Khi lớn lên nghe Ba tôi kể lại Năm 1945 người Miên từ xã Văn Cơ ” Nổi Dậy “Họ uống rượu say, mắt đỏ ngầu, tay cầm Mã Tấu
gặp người Việt lá chém liền. Họ đi đến đâu là cướp của, đốt nhà. Ba tôi là nạn
nhân của chúng. Nhưng may mắn chạy thoát được với vết thương trí mạng trên lưng
vai trái. Sau đó Ba Má tôi dọn nhà ra chợ Đại Ngãi ( nằm trên ngã ba sông
Bassac* và sông Đại Ngãi) cách Hậu Thạnh ba cây số. Thời đó, chợ Đại Ngãi rất trù
phú,đông dân, trên bến dưới thuyền, là nơi tụ hội của giới thương hồ từ Long
Phú, cù lao Dung lên, Cầu Quan, Trà Ôn qua và Kế Sách xuống.Khi gia đình sinh sống
ở Đại Ngãi lúc đó tôi đã chín tuổi mới được đi học. Học xong Tiểu Học tôi vào
Sóc Trăng trường trung học công lập Hoàng Diệu. Tôi đi lính K25/Ttủ Đức năm
1967. Sau Tết Mậu Thân (1968) gia đình dọn về Cần Thơ. Cấp bậc sau cùng: Đ/úy
Quân báo. Sau năm 1975 học tập "cải tạo" 7 năm. Định cư tại Mỹ năm
1992 ...]
[Trich
lời Trần Phù Thế trả lời phỏng vấn của nhà văn
Hai Trầu -Lương Thư Trung]
......
* (Tonlé Bassac theo tiếng Khmer). Vì thế nó còn có
tên gọi nữa là sông Ba Thắc.(NL)
2. Hoạt động thơ văn
[...Đầu
năm 1967 tôi định in tập thơ” Thầm Yêu Trộm Nhớ”, nhưng lần lựa mãi. Tháng tư
thì có lệnh gọi nhập ngũ. Vào lính mệt quá nên quên luôn chuyện xuất bản tập
thơ. Tám năm cầm súng tôi có viết lai rai cho các tạp chí ở Sàigòn. Sau năm
1975 gia đình đã tự thiêu bản thảo tâp thơ cùng với hơn 200 sách báo của tủ
sách gia đình. Khi tôi định cư tại Hoa Kỳ năm 1992 lo đi cày mờ mắt, đâu có gìờ
rảnh mà văn với thơ. Mãi tới năm 1998, tôi mới viết lại và cộng tác với các tạp
chí: Khởi Hành, Văn Hóa Việt Nam, Thư Quán Bản Thảo.
Sách
thơ được ấn hành:
- Giỡn Bóng Chiêm Bao của Trần Phù Thế, Thư Ấn
Quán ấn hành lần đầu, Hoa Kỳ, năm 2003; tái bản lần thứ nhứt năm 2008
-
Gọi Khan Giọng Tình của Trần Phù Thế, Thư Ấn Quán ấn hành lần đầu, Hoa Kỳ, năm
2007; tái bản lần thứ nhứt năm 2009.
Anh
đã từng phụ trách trang Thơ của Tuần báo TRẺ trên Dallas (Texas, Hoa Kỳ) do
Nhật Hoàng chủ biên năm 2008...]
[Trich
trả lời phỏng vấn của nhà văn Hai Trầu
-Lương Thư Trung]
ĐỐI
THOẠI GIỮA HAI TRẦU VÀ TRẦN PHÙ THẾ VỀ CHỮ BẬU
Xin trích đoạn thêm ra đây cuộc phỏng vấn và trả lời để
các bạn hiểu thêm về chữ "Bậu"
[...
Hai
Trầu:
Theo
tôi, trong cả bốn định nghĩa ấy đều không có trách móc, giận hờn, nhưng sao ca
dao mỗi khi nhắc đến “bậu” lại dường như chữ “bậu” được dùng để gọi nhau khi
lúc dỗi hờn, lúc cơm không lành canh không ngọt như trong các câu ca dao hoặc
trong các bài hát dỗ em, tôi còn nhớ dưới đây:
“Chẳng
đánh bậu, để bậu luông tuồng,
Dang
tay đánh bậu, thì bu ồn dạ anh.”
...
Ví
dầu tình bậu muốn thôi,
Bậu
gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra .”
...
Bần
gie đóm đậu sáng ngời,
Lỡ
duyên tại bậu, trách trời sao nên.”
...
Bậu
nói với qua, bậu không bẻ lựu hái đào,
Chớ
đào đâu bậu bọc, lựu nào bậu cầm tay .”
Hoặc
như trong bài thơ “Bậu về”, “ Tình bậu nhẹ hều”
của anh ít nhiều cũng là một lời trách khéo. Anh nghĩ sao? (̣Hai bài
thơ này ghi lại ở dưới - NL)
.
Trần
Phù Thế:
Thưa
anh Hai Trầu, phần lớn trong ca dao ” Bậu ” được chiếu cố rất tận tình. Nào là:
trách khéo, giận hờn, ghen tuông… Thậm
chí dùng từ rất nặng như: phụ phàng, phản bội…Nhưng theo tôi ngôi thứ nhất xử dụng
những từ ấy với ” Bậu ” cũng chỉ vì yêu mà thôi. Tôi thấy điều đó rất bất công
với “Bậu”. Như tôi là một tên si tình rất mê ” Bậu “. Nên khi “Bậu” của tôi qua
đời, tôi đã khóc “Bậu” bằng một bài thơ đấy thống thiết. Đến nỗi hai nhà thơ Hạ
Đình Thao và Lê Văn Trung phải thốt lên “không có bài thơ khóc vợ nào tự cổ chí
kim mà hay hơn được (*):
BẬU ĐI
bậu
đi biệt dạng hôm nào
ta
trông mút mắt nhớ đau từng hồi
nhớ
từ giọng nói tiếng cười
nhớ
se tóc bạc cột đời hai ta
bậu
đi hình như hôm qua
mà
sao ta tưởng như là nhiều năm
bậu
đi lạnh gối ta nằm
hình
như cái lạnh, lạnh ngầm trong xương
bước
qua ngưỡng cửa âm dương
bậu
đi mình bậu chẳng vương vấn gì
còn
ta ở lại sống lì
một
thân, một bóng cu-ky một mình
bậu
ơi, sao bậu làm thinh
nén
nhang, cơm lạt bóng hình là đây
phất
phơ hồn gió theo mây
mỗi
đêm giỡn bóng trăng gầy tàn đêm
bậu
về ta thấy lòng êm
như
trăng thuở nọ bên thềm thanh xuân
như
là tiếng hát bậu ngân
xuống
câu vọng cổ tình quân phụ phàng
bậu
về trăng sáng ngút làng
hương
thơm dậy đất bàng hoàng hồn ta
ngất
ngây ôm chặt trăng, và
tưởng
đâu ôm bậu thịt da vẫn nồng
bậu
đi hồn có về không
nhắn
tin theo gió cho lòng ta yên
dầu
cho bậu ở cõi trên
hay
đang cõi dưới trong miền u-minh
một
mai ta đã dọn mình
qưyết
theo chân bậu lênh đênh cõi nào
dầu
cho đất thấp trời cao
tử
sinh là mới bắt đầu cuộc chơi
ngày
mai bậu trở lại đời
và
ta trở lại làm người bậu ưng
giọt
mừng nước mắt rưng rưng
hai
tay ôm bậu mà rung dậy tình
(Bậu đi - Trần Phù Thế )
.........
(*)
Trích bài viết “BẬU Trong Thơ Trần Phù Thế.” (Lê văn Trung -Trong tập san ” Thư
Quán Bản Thảo” số 38 tháng – 2009
Hai
Trầu:
Vâng
thưa anh, đúng thế! Dường như trong văn chương truyền khẩu có sự bất công với
chữ “bậu” hơi nhiều. Trong thơ văn ngày
nay, tôi nghĩ chưa ai dám dùng chữ “bậu” trong thơ như anh và có lẽ chí có một
Trần Phù Thế rất “mê” chữ “bậu” này như anh vừa kể và với những bài thơ trách bậu,
thương nhớ bậu quá tha thiết mà anh vừa dẫn đủ để nói lên cái nét đặc thù trong
thơ Trần Phù Thế . Và tôi nghĩ chữ “bậu” ngày nay ít người còn dùng nhưng chắc
hồn chữ nghĩa của nó sẽ rất vui với tấm lòng ưu ái của anh dành cho “bậu” vậy!...]
[Trich
trả lời phỏng vấn của nhà văn Hai Trầu -
Lương Thư Trung]
VÀI
BÀI THƠ VỀ BẬU
A. Thơ Trần Phù Thế:
1.
Bài thơ “Bậu về” dưới đây, in trong thi phẩm “Gọi Khan
Giọng Tình”
BẬU VỀ
bậu về liếc mắt đong đưa
gió Xuân đầy mặt
như vừa chín cây
bậu về má đỏ hây hây
ta mười lăm đã lòng say bậu
rồi
bậu còn
chơi ác nói cười
những câu dí dỏm
chết đời ta chưa
bậu về nhớ nắng thương
mưa
hình như cây cỏ cũng ưa bậu
về
như là có chút nắng hè
như là có cả
chùm me chua lừng
như là xoài tượng thơm
giòn
thêm vào nước mắm chút đường
khó quên.
bậu về
Đại Ngãi mình ên
bỏ quên kẹp tóc
bắt đền tội ta
bậu quên là tại bậu mà
tại sao bậu bắt đền ta một
đời
tội này không chịu bậu ơi!
(Trần Phù Thế)
@ Nhận xét của Hai Trầu
"Bài
thơ như một lời ca dao rặt miền Tây Nam Phần với sông nước Hậu Giang ngọt mát bốn
mùa. Tài tình nhất là các chữ dùng rặt miền quê mà ngập tràn thương mến, hình ảnh rất đơn sơ mà
làm nên nỗi nhớ cả một đời, nào là “chùm me“, “xoài tượng”, “nước mắm”, “chút
đường”,”mình ên”, “kẹp tóc”… Phải chăng Trần Phù Thế làm thơ tình không giống
ai và không có ai làm thơ tình giống Trần Phù Thế nổi ? Anh nghĩ sao?"
2.
"Bậu
về Đại Ngãi mình ên/ bỏ quên kẹp tóc bắt đền tội ta/ bậu quên là tại bậu mà/ tại
sao bậu bắt đền ta một đời/tội này không chịu bậu ơi!": Bậu là ai đã về Đại
Ngãi và để quên kẹp tóc (thật hay giả bộ?) rồi bắt đền thi sĩ một đời?
Đây
là BẬU theo lời "thành thật khai báo" của thi sĩ:
[...
Chuyện nầy nói ra thiệt là mắc cở quá chừng. Lúc mà ta mười lăm đã lòng say bậu
rồi …. Tôi khoái một cô bé tên Thương Huyền. Gia đình cô bé rất giàu có, nên cô
ấy vô cùng kiêu ngạo. Hơn nữa ba cô bé mặt lạnh như tiền. Tôi đành nhốt hình
bóng kiều diễm của bé vào trái tim. Tôi bắt đầu làm thơ....]
Gia đình Thương Huyền vượt biên năm 1980 và định cư tại
Đức. Thương Huyền cho biết đã đọc bài
thơ “Tuổi Thơ Đại Ngãi” của Trần Phù
Thế trong tuyển tập của Nhóm Văn Hóa Pháp Việt và bần thần suốt ngày. Những kỷ
niệm thời thơ ấu như sống lại, hiển hiện trước mắt, bà bèn tìm địa chỉ và đã
viết thư cho thi sĩ với lời cám ơn.
Đây là lời của Trần Phù Thế tâm sự với Hai Trầu trong
cuộc phỏng vấn:
"Anh Hai
biết không: Đọc thư xong, niềm cảm khái dâng trào, tôi ngồi vào bàn viết và viết
trong bốn mươi lăm phút là hoàn tất bài thơ “Bậu về”. Tối hôm đó, tôi đọc lại
bài thơ vừa sáng tác “Bậu về” cảm thấy
thiêu thiếu cái gì đó. Thế là tôi viết luôn bài thơ “Tình Bậu Nhẹ Hều,” ý trách
nàng một chút, để xoa dịu lòng nhát gan của mình"
Tình
bậu nhẹ hều
rất
nhẹ nhàng
hình
như không lay động
bậu
nhẹ về
như
hơi thở dòng sông
ta
ngây ngất
thèm
đôi môi đỏ mộng
bởi
mê tình nên nuôi mãi tình không
bậu
biết đó
tình
nào không mê mệt
những
thiết tha
cùng
nhịp đập con tim
nên
một bữa
dạt
dào tình dậy sóng
khi
tóc thơm phảng phất một mùi quen
như
bữa đó
bậu
về trong cơn gió
gió
thênh thang
bay
khắp nẻo vô chừng
bậu
lại nữa lượn lờ không biết mỏi
chỉ
riêng ta khan tiếng gọi người dưng
mong
đêm nay
bậu
về trong giấc ngủ
trong
mùi thơm
hoa
sứ trước hiên nhà
con
bướm nhỏ quạt hoài chùm hoa sứ
cũng
như ta đuổi mệt tình càng xa
ta
rất nhẹ nâng niu tình hai đứa
cất
trong tim
không
dám chạm vào tim
ta
chỉ sợ một giây hai phút nữa
tình
biệt luôn trốn mất biết đâu tìm
bậu
coi nhẹ, nhẹ hều tình hai đứa
ta
nặng tình, dẫu chết chẳng hề quên.
(Trần Phù Thế)
B.
Thơ Nguyên Lạc
-- Trước khi giới thiệu vài bài thơ về "Bậu"
của tôi, tôi xin có vài hàng về sự quen biết giữa tôi và Trần Phù Thế. Anh Trần
Phù Thế chào đời ở làng Hậu Thạnh như đã nói trên, tôi sanh tại làng Đại Ngãi,
học cùng trường tiểu học Đại Ngãi, rồi trung học Hoàng Diệu, Sóc Trăng với anh,
nhưng sau 3 lớp. Anh nhập ngũ 1967 còn tôi vẫn tiếp tục lên đại học Cần Thơ và
mãi đến 1973 mới nhập ngũ, gia nhập Quân y VNCH, vượt biển đển BiDong, Malaysia
1987 rồi định cư tại Mỹ 1988, trước anh 4 năm.
Đêm
nay chợt nhớ con kinh
Hai
bờ dừa nước. dòng tình xuôi êm
Hậu
Thạnh đồng lúa êm đềm
Anh
ra Đại Ngãi tìm em má hồng
Trường
xưa. còn nhớ hay không?
Phượng
hồng. mắt biếc. tình nồng. duyên quê...
(Ra Đi, Về Tìm - Nguyên
Lạc)
Đại Ngãi còn được gọi là Vàm Tấn - Vàm (Danh từ): cửa sông, nơi rạch chảy ra sông hoặc
sông con chảy ra sông lớn.
Do cùng sống bên dòng sông Hậu và các kinh rạch nên chữ
"Bậu" cũng thấm vào máu tôi, như anh.
-- Mời các bạn đọc vài bài thơ về "Bậu" của
tôi:
TỘI GÌ NHỚ THƯƠNG
"Đất
Sóc Trăng khô cằn nước mặn
Tôi
ra Vàm Tấn chở nước về xài
Về
nhà sau trước không ai
Hỏi
ra bậu đã theo trai mất rồi"
Giậm
chân tôi réo ông trời
Gây
chi bao cảnh sầu đời thế ni
Thuận
tay nhổ một cây mì
Gõ
vào đầu ba cái... tội gì nhớ thương!
MÔI TÍM MỒNG TƠI
Thò
tay ngắt trái mồng tơi
Bậu
thoa môi tím nhìn tôi bậu cười
Chuồn
chuồn cắn rún tập bơi
Trên
bờ dừa nước bậu cười dòn tan
Động
con còng gió đỏ càng
Thòi
lòi trố mắt bậu càng cười tươi!
*
Đời
người như áng mây trôi
Mươi
năm tìm lại đâu rồi bậu xa
Bờ
kinh dừa nước là đà
Thằng
tôi thời cũ tóc giờ điểm sương
Lục
bình trôi xuống trôi lên
Bậu
trôi mất dấu mình ên tôi ngồi!
Nhớ
ơi môi tím mồng tơi!
(Nguyên Lạc)
..........
@. Chú thích
a. Còng gió
(Ocypode ceratophthalma): Gọi còng gió vì đây là loại còng chạy rất nhanh, tưởng
có thể bằng cả tốc độ của gió. Mặc dù có bộ dạng nhỏ thó, nhưng đôi càng của
còng gió đực (một lớn, một nhỏ) lại là vũ khí hết sức đáng sợ, càng nó rất khỏe,
mép càng sắc như dao, kẹp có thể đứt thịt. Ở quê tôi, Đại Ngãi, Sóc Trăng, Hậu
Giang nơi các sông rạch, còng gió lớn cỡ ngón tay màu xanh blue rất đẹp
b. Cá thòi lòi ( Periophthalmodon schlosseri), là một
loài cá thuộc họ Cá bống trắng (Gobiidae), Cá thòi lòi phổ biến nhất dọc các
bãi lầy ở cửa sông, không ngập quá 2 m nước Loài cá này sinh sống trong hang hốc
vét ở bãi lầy. Khi thủy triều xuống thì cá chui ra, nhất là những ngày nắng
ráo.
Cá có khả năng di chuyển trên mặt bùn khá nhanh, gần
như chạy nhảy. Với hệ thống hô hấp bằng phổi cá thòi lòi có thể thở trên cạn.
Khi dưới nước thì dùng mang.
THƯƠNG BẬU
Tưởng
bậu sâu, thả một câu
Dè
đâu bậu cạn! Tiếc câu bậu chề!
Ghét
người, tôi lập lời thề!
Nhưng
quên tuốt luốt đêm về... bậu ơi!
Tức
mình, dậm cẳng kêu trời
Thương
chi cho dữ, để rồi... mọc rong!
Bậu
ơi! Có biết hay không?
TÌNH QUÊ
1.
Vũng
nước trong con cá lòng tong bơi lội
Xa
nhau rồi tội lắm bậu ơi!
Chẳng
thà không gặp thì thôi
Gặp
nhau ruộng vắng trao đời nhớ không?
Nhớ
thương từng chỗ bậu nằm
Từng
lời bậu nói hàm răng bậu cười
Quên
tôi bậu đã quên rồi!
Chạy
theo phù phiếm bỏ đời tôi đau
2.
Buồn
trông con nhện té ao
Con
cá vội đớp lòng sao ngậm ngùi
Ngẫm
tôi cũng té lâu rồi
Lụy
đời vì bậu mắt ngời lá răm
Vẳng
khuya cá đớp bóng trăng
Hồn
tôi bậu đớp bao lần biết không?
Huơ
tay chỉ lạnh chổ nằm
Chiếu
chăn xô lệch mất tăm bậu rồi!
Sáng
ra bến nước trông vời
Chỉ
màu tím biếc bông trôi lục bình
Lòng
tôi tím ngắt như bông
Bậu
quên tuốt luốt... bậu đành bỏ tôi!
ĐỨNG NGỒI HỎNG YÊN
Bậu
về ngắt ngọn mồng tơi
Hái
thêm đọt bí ngọt nồi bậu ơi!
Lững
lờ con nước cứ trôi
Tại
qua mà bậu đứng ngồi hỏng yên
Lục
bình hoa tím muộn phiền
Qua
sang thăm bậu, nụ duyên bậu cười
Giờ
đây bậu trách ông trời
Xe
chi lộn mối, qua rồi bậu xa!
Chiều
chiều ra đứng hàng ba
Chờ
qua không thấy, bậu sa lệ sầu!
Không
thương thì có sao đâu?
Mảng
sầu qua, bậu ốm o gầy mòn *
.......
*
Chim chuyền nhành ớt líu lo
Mảng
sầu con bạn ốm o gầy mòn (Ca dao)
Nguyên Lạc
(Bài kế: Tiếp Tục Các Bài Thơ Về Bậu )
.......................
Ghi chú của Hai Trầu:
[1] Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của, nhà xuất
bản Rey, Curiol&Cie, Sài gòn, 1895; nhà Văn Hữu, Sài gòn, tái bản năm 1974
[2]Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ,
nhà xuất bản Khai Trí, Sài gòn, năm 1970, quyển thượng.
[3]Từ Điển Từ Ngữ Nam Bộ của Huỳnh Công Tín, nhà xuất
bản Khoa Học Xã Hội, Việt Nam, năm 2007
[4] Việt Nam Tân Từ Điển của Thanh Nghị, nhà xuất bản
Thời Thế, Sài gòn, năm 1951.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét