Thầy Hồ Ngọc Thanh
NGHỀ
THẦY XƯA VÀ NAY
Sự nghiệp giáo dục nước Việt Nam ta bắt đầu hình thành
và phát triển từ thời nhà Lý, khi việc học được coi trọng, được đặt làm nền tảng
cho việc tuyển chọn nhân tài để kinh – bang – tế - thế. Triều đình đã cho lập
Quốc tử giám để đào tạo, mở khoa thi tam trường để chọn người chăm lo việc nước,
việc dân. Nối tiếp nhà Lý, các đời vua Trần, Lê, Nguyễn đã lập Văn Miếu, Văn
Thánh,... ở kinh đô của các triều đại như Hà Nội, Huế để dựng bia đá khắc tên
nhằm tôn vinh hiền tài, khuyến khích việc học và lưu danh hậu thế.
Từ đầu thế kỷ thứ XX, phong trào tây học với chữ quốc
ngữ bắt đầu đào tạo tầng lớp trí thức có cách tân, có sở học đa năng, đa dụng
nhằm phục vụ guồng máy chính quyền thuộc địa và xây dựng xã hội mới. Cơ sở giáo
dục được tổ chức có hệ thống từ thấp lên cao dù chưa rộng khắp. Người thầy bắt
đầu được đào tạo có tính chuyên môn, nhưng cứu cánh của giáo dục vẫn là đào tạo
con người có tri thức, có đạo đức để làm người, sống hữu ích và tốt đẹp hơn.
Nghề thầy vẫn tiếp tục được tôn vinh, việc học vẫn được
coi và truyền thống Tôn sư trọng đạo vẫn mãi là đạo lý của thầy trò. Dù là
hương sư dạy bậc sơ học ở trường làng, dù là đốc học hay giáo sư dạy bậc trung
học, đại học thì tất cả đều được tôn vinh là thầy giáo. Thầy giáo không chỉ được
học trò mà cả xã hội đều kính trọng. Đầu thế kỷ XX, ít có phụ nữ làm nghề giáo
mặc dù không thiếu bậc hiền mẫu dạy con nên người. Trong giai đoạn nầy, nghề thầy
vẫn là nghề tự phát của một số người có học thức, có tâm chí muốn góp phần xây
dựng xã hội. Số thầy giáo và học trò còn hạn chế, thầy không dạy vì đồng lương
và trò không học bằng học phí. Mãi đến thập niên 1950 mới bắt đầu có các lớp sư
phạm. Các trường sư phạm được mở ở các thành phố lớn của cả ba miền Nam – Trung
– Bắc để đào tạo cán bộ ngành giáo dục ở các bậc tiểu học, trung học và đại học
nhưng số lượng chính quy vẫn còn hạn chế và sự nghiệp giáo dục chưa mấy phổ cập.
Người đi học vẫn là con cái của những gia đình khá giả
ở thành thị hoặc những ai hiếu học, có chí tự vượt qua sự khó khăn trong cuộc sống.
Thầy cô giáo là hình tượng để học sinh ngưỡng mộ về tư cách đạo đức, lương tâm
nghề nghiệp, tri thức truyền giảng. Do đó thầy cô giáo luôn gương mẫu trong lời
nói, cử chỉ; ngay thẳng trong việc làm;lịch sự trong trang phục; đạo đức trong quan
hệ. Hầu như không có trường hợp tai tiếng về tư cách của người thầy trong các mối
quan hệ từ gia đình, học đường đến xã hội.
Nhưng từ khi nhu cầu học vấn bùng nổ và sở học là cứu
cánh để tiến thân trong cuộc sống thì số lượng người học tăng lên; đội ngũ nghề
thầy cũng đông hơn. Cuộc sống phát triển nhiều mặt đến nổi mục đích giáo dục
không đáp ứng kịp thời nhu cầu tri thức của con người trong cuộc sống. Do đó định
hướng giáo dục đôi khi võ đoán phiến diện, kết quả là con người được đào tạo có
tri thức nhưng đạo đức được un đúc một cách giáo điều. Hệ luỵ là xã hội đầy rẩy
những tri thức rởm, lắm kẻ đạo đức giả, học đường mất đi nhân xưng cao quý là
nơi sản sinh bậc hiền giả, tri thức như ngày xưa. Vì thế nghề thầy cũng bị đánh
đồng như bao nghề khác trong xã hội, không còn đứng ở bậc cao địa vị hằng được
tôn vinh như ngày trước. Thậm chí có nơi trường học hoặc cơ sở giáo dục đào tạo
mang hình thái của chợ chữ; Nhà quản lý bán chữ của thầy cô giáo và học trò là
người mua chữ. Thầy cô chỉ là người lao động chữ nghĩa nên không còn được trọng
vọng như xưa. Trước thực trạng đau lòng ấy, có người đã lên tiếng kêu gọi đã đến
lúc cần chấn hưng đạo đức và trách nhiệm giáo dục ở học đường.
***
Tôi may mắn được học với những vị thầy trong thập niên
1940 và suốt thập niên 1950. Dù họ là thầy giáo sơ học, tiểu học, trung học hay
ở trường sư phạm, tất cả đều là những bậc thầy khả kính, đáng nể phục về tri thức
lẫn đạo đức. Tôi luôn nhớ đến hình ảnh của các vị thầy đã dạy tôi ở bậc tiểu học
thời đó. Quý thầy đều là người đứng tuổi, có phong cách của một công chức thời
Pháp thuộc. Trang phục thầy luôn chỉnh tề: sơ - mi, cà - vạt và veston theo
mùa, nghiêm chỉnh trong lời nói, cử chỉ; phong thái đĩnh đạc, đạo mạo, khả kính
vô cùng. Quý thầy dạy tôi ở bậc trung học trẻ trung hơn nhưng vì tác phong nghề
nghiệp nên trang phục, ngôn ngữ, cử chỉ cũng rất nghiêm chỉnh. Khi đứng lớp giảng
bài, phong thái của quý thầy thật là uyên bác và sinh động. Đặc biệt quý thầy dạy
ở trường sư phạm thì thật là mẫu mực trong mọi sự, vì thầy đang đứng trước giáo
sinh – những người thầy tương lai. Do đó, tư cách của quý thầy đã ảnh hưởng đến
giáo sinh không ít, trong đó có tôi và các bạn đồng môn, đồng nghiệp sau nầy.
Suốt gần năm mươi năm, dù xã hội có nhiều chuyển biến
nhưng đối với tôi nghề thầy vẫn là niềm vui, niềm tự hào suốt cuộc đời. Tôi
luôn thể hiện tư cách tốt của một người thầy mà tôi đã hấp thụ được từ các bậc
thầy khả kính của tôi. Bản chất nhà giáo từ khi còn trai trẻ cho đến nay vẫn
không thay đổi. Tôi vui vì đã góp phần đào tạo cho xã hội những con người có
ích, trong đó nhiều người đã tiếp bước vai trò thầy cô giáo có danh trong ngành
giáo dục ngày nay. Với tôi, thầy trò vẫn giữ được tình nghĩa như thuở nào dù
bây giờ đã ở vào tuổi hưu trí.
Mong sao các nhà giáo dục hiện nay sớm có chương trình
chấn hưng nền giáo dục nước nhà, phát huy đạo đức và trách nhiệm của người thầy
đối với sự hưng vong của xã hội theo câu nói Lương sư hưng quốc để những nhân
tài là sản phẩm của một nền giáo dục tốt.
Hồ
Ngọc Thanh
Tổng Giám Thị trường Trung Học Nguyễn Hoàng
(1966 – 1973)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét