Tác
giả bài viết Lê Bá Lư và nhà thơ Phạm Thiên Thư
ĐẾN
ĐỘNG HOA VÀNG GẶP “GÃ TỪ QUAN”
Quán cà phê Hoa Vàng nằm ở một góc khuất trong cư xá Bắc
Hải, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Đến đây, khách thường thấy một người đàn
ông tầm thước, dáng vẻ nông dân, da ngâm ngâm, mũi lân, trán vồ, miệng rộng,
tai dài, răng to, khi thì ngồi một mình cặm cụi viết trên cuốn sổ nhỏ bằng nửa
bàn tay, khi thì ung dung chuyện trò với khách, đó là nhà thơ Phạm Thiên Thư,
tác giả thi phẩm “Động Hoa Vàng”, đã
được nhạc sĩ tài danh Phạm Duy phổ thành ca khúc nổi tiếng “Đưa em tìm động hoa
vàng” được rất nhiều người yêu thích.
Trong những lần tiếp xúc với nhà thơ Phạm Thiên Thư,
tôi cảm thấy ông là một con người đặc biệt, bao hàm nhiều tính cách, mênh mang
nửa đạo nửa đời. Trông ông vừa như một thiền sư sâu lắng, một triết gia uyên
thâm, một thi sĩ lãng mạn, vừa là gã lãng tử thích rong chơi cõi đời…, coi mọi
chuyện trần gian đều là phù du, hư ảo. Phạm Thiên Thư luôn có vẻ ung dung tự tại,
nhưng nhìn vào khối lượng tác phẩm đồ sộ của nhà thơ, chúng ta có thể hiểu ông,
trước hết là một nghệ sĩ tài năng với năng lực sáng tạo và sức làm việc thật
phi thường. Sự nghiệp 50 năm sáng tác của ông đã đóng góp vào kho tàng văn học
nước nhà vài chục vạn câu thơ độc đáo, với nhiều tác phẩm trong nhiều lãnh vực.
Phạm Thiên Thư luôn tìm tòi sáng tạo, mở cho mình con
đường sáng tác riêng. Nhiều tác phẩm kinh điển đã được ông chuyển thành thơ. Phạm
Thiên Thư đã thi hóa 7 bộ kinh của Phật giáo, như kinh Kim Cương (kinh Ngọc),
kinh Pháp Cú (kinh Thơ), kinh Hiền Ngu (kinh Hiếu, kinh Hiền)…
Với lòng kính trọng thi hào Nguyễn Du và yêu mến truyện
Kiều, Phạm Thiên Thư đã “cả gan” viết
“Hậu Kiều - Đoạn Trường Vô Thanh” tiếp
nối “Truyện Kiều - Đoạn trường Tân Thanh”
dài 3.296 câu lục bát, với tinh thần đề cao tính dân tộc, xóa bỏ mọi điển tích,
từ chương Hán ngữ, thay vào đó bằng lịch sử, điển tích, ngôn ngữ, đất nước, con
người Việt Nam… “Đoạn Trường Vô Thanh”
đã đoạt giải nhất văn chương toàn quốc năm 1973 dưới chế độ cũ Sài Gòn.
Phạm Thiên Thư đã sáng tác từ điển cười bằng thơ, đây
là một tác phẩm độc đáo với 24.000 câu tứ tuyệt. Theo châm ngôn “nụ cười bằng mười thang thuốc”, “cười vui đẩy
lùi bệnh khổ”, cười để chữa bệnh (tiếu liệu pháp), nhà thơ đã nghĩ ra đủ mọi
chuyện, mọi thứ trên đời để cười; sử dụng sự hài hước, dí dỏm để chữa tâm bệnh.
Trong lời giới thiệu “Từ điển cười” của
Phạm Thiên Thư, bác sĩ Trương Thìn - Chủ tịch Hội Đông y TP. Hồ Chí Minh đã viết:
“Phạm Thiên Thư làm y thơ, tiếu liệu
pháp, ai cũng cười, cười phá được khổ đau, cười òa trong giác ngộ,…”. Nhà
thơ đã được Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục “Là người Việt Nam đầu tiên sáng tác từ điển cười bằng thơ”.
Cuộc hạnh ngộ của hai bậc nghệ sĩ tài hoa họ Phạm - nhạc
sĩ Phạm Duy và thi sĩ Phạm Thiên Thư, đã để lại nhiều giai thoại một thời trong
giới văn chương. Khoảng thời gian 1970, nhạc sĩ Phạm Duy sau khi qua quảng đường
dài sáng tác, từ dân ca, tình ca, tâm ca, hoan ca, tục ca, vĩa hè ca,… sáng tác
của Phạm Duy đã đí vào bế tắc, chán chường. Lúc đó cơ duyên Phạm Duy đã bắt gặp
những vần thơ nhẹ nhàng, thanh khiết, mênh mang, thâm trầm, nửa đạo nửa đời,
thiền ý sâu xa của thi sĩ kiêm tu sĩ Thích Tuệ Không (pháp danh của Phạm Thiên
Thư), Phạm Duy đã tìm ra lối thoát cho hồn nhạc, thấy được con đường đi vào Đạo
ca, hay đúng hơn là đi vào Đạo sống. Ngoài một số nhạc phẩm Phạm Duy sáng tác từ
những vần thơ của Phạm Thiên Thư đã đi vào lòng công chúng, như “Đưa em tìm động hoa vàng”, “Ngày xưa Hoàng
thị”, “Em lễ chùa này”… Phạm Duy còn hợp tác với Phạm Thiên Thư để cho ra đời
10 bài Đạo ca nổi tiếng. Có thể nói cuộc hạnh ngộ của Phạm Duy và Phạm Thiên
Thư là duyên may, “như mây gặp núi”,
đã làm danh tiếng hai nghệ sĩ tài danh họ Phạm thêm lừng lẫy và còn để lại cho
đời những tác phẩm bất hủ. Trong kỷ niệm 50 năm sáng tác của nhà thơ Phạm Thiên
Thư được tổ chức tại Nhà hát TP Hồ Chí Minh đêm 21/12/2011, nhạc sĩ Phạm Duy đã
nói: “Nếu không có Phạm Thiên Thư thì
không có Phạm Duy”. Câu nói có thể phần nào xả giao, nhưng cho thấy Phạm
Duy đã tôn trọng và đánh giá rất cao thơ của Phạm Thiên Thư.
Kỷ niệm 1000 năm Thăng long Hà Nội, Phạm Thiên Thư cho
ra đời tác phẩm “Hát ru Việt sử thi”,
mà theo nhà thơ, “đó là tình cảm và trí
tuệ, anh hùng khí phách, âm thanh và sự sống con người Việt Nam muôn đời qua
siêu thức hát ru …”. Với 3.325 câu lục bát, “Việt sử thi” đã kể chuyện lịch sử bằng thơ từ thời vua Hùng dựng
nước đến triều đại Tây Sơn….
Thơ của Phạm Thiên Thư đủ sắc màu, giai điệu, “sang trọng” lẫn “bình dân”. Có những vần thơ lung linh huyền ảo, bay bổng, nhẹ
nhàng thoát tục, dễ đưa hồn người lâng lâng vào cõi thiên thai, mơ hồ.
Thức giấc ta nhìn em
Long
lanh ngoài cửa sổ
Hạt
lệ xanh thiên cổ
Sáng
giữa vầng đêm đen
Ngôi
sao hình như quen
Ướp
trong lòng thơ cũ
Dường
có chi ấp ủ
Đậu
thơm nhành hoa sen…
(Sao khuya)
Những câu thơ tha thiết, nồng nàn:
Thôi
thì em mặc áo xanh
Cho
hồn ta ẩn bên nhành kết thơ
Thôi
thì em rủ tóc tơ
Cho
ta tựa gốc sương mờ tịnh tâm
Thôi
thì em nguyện lâm râm
Cho
ta ngửi nẫu môi trầm như lai
Lỡ
không cái gã địa tài
Đắp
chăn gã ngủ giấc dài trong tôi
Một
mai ta có luân hồi
Tái
sinh lại giữa khóe môi em hồng…
(Khúc tự tình phù du)
Có những câu ngang tàng khí phách:
…Vó
ngựa qua cầu còn mây mù
Khói
phù hư dong nốt phù du
Xốc
xếch đeo túi thơ bầu rượu
Cùng
cỏ hoa vẫy chào xuân thu
Khua
mái chèo cuốn cả thiên thanh
Thuyền
chở xuân gỗ cùng đơm nhành
Vỗ
bầu rượu hát câu chuốc rượu
Gạc
chân mây nổi giữa dòng xanh…
(Ngày xưa Tù Thức)
Phiêu diêu thoát tục
…Ðất
Nam có lão trồng hoa
Mùa
hoàng cúc nở ướp trà uống đông
Lại
đem bầu ngọc ra trồng
Bầu
khô cất nậm rượu hồng uống xuân
Người
vui ngựa chợ xe thành
Ta
leo cầu trúc bên ghềnh thác rơi
Theo
chân chim gặp mây trời
Lại
qua khói động hỏi người tu non….
(Động hoa vàng)
Cùng với những thi phẩm tuyệt tác, nhà thơ Phạm Thiên
Thư còn có không ít tác phẩm “bình dân”,
nôm na, hóm hỉnh, chọc cười, như 10 bài thơ răn vệ sinh:
Đi cầu (tập hỷ xả)
Cái
xấu cho đi chẳng tiếc chi
Thải
luôn hờn giận- chớ nên ghì
Coi
như mơ ngủ- như chưa gặp
Để
trướng trong tâm – có ích gì?
Rửa mặt (tập chu toàn)
Vò
cho khăn sạch mới đem dùng
Lỡ
dán đêm qua tới “ị” cùng
Chớ
tưởng của mình là sạch cả
Biết
đâu kẻ xấu lén xài chung
Soi gương (tập tự trọng)
Ra
phố nên soi kỹ mặt mày
Đẹp
mình trước đã để người hay
Đẹp
hơn tất cả là nhân cách
Chẳng
hỗ trời cao thẹn đất dày
Mặc đồ (tập cảnh giác)
Trước
giũ rồi sau mới xỏ vào
Biết
đâu rết, nhện ẩn trong “bào”
Cứ
nên cảnh giác là hơn cả
Những
chỗ không ngờ- bị mới đau…
Đã quá tuổi “cổ
lai hy”, Phạm Thiên Thư vẫn miệt mài sáng tác, nhà thơ tiết lộ đã hoàn
thành và sẽ “trình làng” một số tác phẩm: “Hồi
ký 1”, với 10.000 câu thơ nói về cuộc đời của mình từ thuở ấu thơ đến năm
1975 ; “Nhật ký quán Hoa Vàng”, nhật
ký thể thơ, ghi lại những gặp gỡ giao lưu với bạn bè, thân hữu thường ngày tại
quán Hoa Vàng, khoảng 8.000 bài thơ 4 câu; “Xanh
ngôn huyền”, chuyển từ tác phẩm “Huyền
ngôn xanh” (ý tưởng khắp thế giới- google) và có thêm một chương; “Dưỡng sinh huyền”, gồm 6.000 câu thơ về
phương pháp dưỡng sinh Phathata (Pháp- Thân- Tâm). Nhà thơ còn sắp cho ra đời một
công trình đồ sộ, là bộ “Từ điển Tâm Phật”
khoảng 10.000 trang thơ, gồm 4 phần: Tâm Phật 1, Tâm Phật 2, Tâm Phật 3 và Tâm
ngôn Thiền.
Nhà thơ Phạm Thiên Thư cho biết, hiện nay ông vừa hiệu
đính các tác phẩm sắp xuất bản, vừa tiếp tục viết “Hồi ký 2” về cuộc đời từ sau năm 1975 đến hiện tại; đồng thời bắt
đầu viết “Kinh Trang”, chuyển từ tác
phẩm “Trang Kinh” của Trung Quốc sang
thể loại thơ 4 câu, theo tinh thần ngôn ngữ Việt Nam.
Có thể nói sáng tạo của nhà thơ Phạm Thiên Thư thật độc
đáo và phi thường. Đến nay ông đã viết hơn 15 vạn câu thơ thuộc nhiều lãnh vực.
Chỉ tính trong 10 năm qua, ông đã cho ra đời hơn 30 tác phẩm trường thi. Dường
như ông viết từ siêu thức, thơ đã có sẵn trong đầu cứ thế mà trào ra. Nhà thơ bộc
bạch: “Có lẽ là nhờ vào nguồn lực thiền,
mỗi lần cảm xúc tôi khẽ nhắm mắt lại là thi tứ dâng lên”. Phạm Thiên Thư
thường thức làm thơ đến 1- 2 giờ sáng và mỗi đêm ông ngồi thiền ít nhất là 1 tiếng
đồng hồ, mà theo ông là để “phục hồi và nạp
thêm năng lượng”.
Với phong thái ung dung, hòa nhã của một thiền sư, Phạm
Thiên Thư lúc nào cũng khiêm cung và sẵn sàng chia sẻ với tha nhân. Thấm nhuần
tư tưởng Phật giáo nên thơ ông dù ở lãnh vực nào cũng chứa đựng tư tưởng thiền.
Theo ông, không cần phải vô chùa tu hay sống biệt lập, ai ai cũng có thể tìm
chân lý thiền trong cõi trần tục này. Phạm Thiên Thư thường khuyên mình cũng
như khuyên người: “Luôn biết mình dốt-Để
gột tính kiêu-Để yêu như mới-Để cởi mối hiềm-Để thêm tinh tiến…”.
Ngoài là một nhà thơ nổi tiếng, Phạm Thiên Thư còn là
một nhà ngoại cảm, một thầy thuốc chữa bệnh khá nổi tiếng theo phương pháp dưỡng
sinh Phathata (Pháp-Thân-Tâm) do ông sáng lập. Theo ông, Phathata là một phương
pháp chữa trị bệnh tật và rèn luyện sức khỏe bằng cách đánh thức tiềm năng con
người, tự điều chỉnh bế tắc, rối loạn cơ thể và tâm lý thông qua khả năng siêu
ý thức và những cách tham thiền, vận nội công và yoga. Phương pháp này được
chính quyền địa phương công nhận đã điều trị hiệu quả cho những người cai nghiện
ma túy tại cộng đồng dân cư.
Phạm Thiên Thư tên thật là Phạm Kim Long, sinh năm
1940 tại Hải Phòng, vào Nam năm 1954, ông đã từng đi tu gần 10 năm ở chùa Vạn
Thọ - thành phố Hồ Chí Minh (1964-1973). Sau khi hoàn tục ông lập gia đình, có
3 người con trai. Cuộc đời nhà thơ cũng trải qua nhiều thăng trầm, ông đã từng
làm nhiều nghề vất vả để kiếm sống. Quán Hoa vàng của gia đình ông được mở từ
10 năm nay. Đây là cũng là nơi gặp gỡ, giao lưu của giới văn nghệ sĩ và những
người mến mộ “gã từ quan- Phạm Thiên Thư”.
Vốn là một người am hiểu sâu sắc Phật pháp và giáo lý
nhà Phật, nhà thơ Phạm Thiên Thư đã hiểu lẽ vô thường của tạo hóa. Ông thường
nói đời người là phù vân nhưng cũng nhiều thú vị, đừng âu lo, không trụ, không
chấp mới được an lạc. Ông thường khuyên bạn bè hãy cười nhiều hơn để thêm sức
khỏe cho mình và mang niềm vui đến cho mọi người. Phạm Thiên Thư thường hay dí
dỏm: cười nhiều vui nhiều thế giới sẽ hòa bình.... Nhà thơ đã nâng giá trị nụ
cười lên tầm cao nhân văn.
Lê Bá Lư
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét