Nhà văn Trần Duệ
NHỮNG NGƯỜI Ở VEN RỪNG
Trần Duệ
Cuối cùng Mai cũng lấy được chồng. Đám cưới được tổ chức
khi cô gần ba chục tuổi, chấm dứt cái từ “gái ế” mà bà con gọi lén đã nhiều năm
qua. Xóm làng đều vui, riêng Mai thì không ai đoán được. Cô sống với người mẹ
đã già yếu. Ở miền núi, người ít, đất rừng mênh mông nhưng phần lớn đều của nhà
nước. Đất ở hẹp, người đông nên nhiều ngôi nhà nằm ở cạnh nhau trông không giống
cảnh vùng cao ngày trước. Nhà của Mai nằm ở cuối thôn, có khu vườn khá rộng, xa
nơi đông người. Vào những đêm tối trời, ngôi nhà có ánh điện mờ mờ, nằm khuất
dưới vườn cây, trông cũng buồn thiệt. Mai lấy chồng nhưng không theo chồng về
làm dâu. Chồng của Mai tên Huy, lớn hơn Mai khoảng bốn, năm tuổi. Nghe nói anh
lấy vợ trễ do mãi đeo đuổi chuyện làm thơ, nhưng thực ra ở đây chưa ai từng nghe
hoặc đọc thơ của chồng Mai. Gia đình Huy ở xã kế bên, anh em đông, nên chuyện
Huy đi ở rể cũng không khiến mọi người bận tâm cho lắm. Một năm sau Mai sinh
con gái. Bà con thấy mừng, vì tương lai trong xóm sẽ bớt được một thằng hút,
chích, đua xe... Ba năm nữa, vợ chồng Mai ly hôn, bà con lại thấy vui vì xóm
làng đã bớt được một thằng đàn ông suốt ngày say xỉn. Bà con đang cần một người
làm ra lúa, ra bắp chứ không cần một người làm thơ.
Vào một đêm trăng mờ mờ, chị hàng xóm qua nhà Mai, tới
cổng, thấy anh xóm trưởng đi ra. Khi chào hỏi nhau, anh bảo đi thu thuế nông
nghiệp. Mãi đến trưa hôm sau, nằm đong đưa trên võng chị mới nhớ lại và cảm thấy
phân vân, là nhà nước đã miễn thuế nông nghiệp cho người trồng cây lúa từ nhiều
năm rồi, sao bây giờ vẫn còn thu? Cố gắng lục trong trí nhớ, cuối cùng chị cũng
nhớ ra. Thôi rồi, cái câu “Đi khám điền thổ” mà ông quan huyện đã nói trong vở
tuồng: “Nghêu, Sò, Ốc, Hến” đến nay vẫn còn xài được. Chuyện đi thu thuế nông
nghiệp được truyền đi khắp xã, chỉ có hai người không nghe không biết, đó là cô
Mai và vợ anh xóm trưởng.
Trong xóm có anh Toàn năm nay anh cũng đã gần bốn chục
tuổi nhưng vẫn sống một mình trong ngôi nhà của cha mẹ để lại. Nghe nói trước
đây anh là kỹ sư điện và làm việc ở trên thành phố, nhưng không biết vì sao anh
lại bỏ việc về sống ở đây. Nhiều người phụ nữ trong xóm cứ bàn tán, rồi phân
tích, vì nguyên nhân gì đến chừng này tuổi mà không chịu lấy vợ? Nghĩ không ra,
họ đoán bừa và đồn ra là anh “mắc bệnh đằng dưới”. Nghĩa là, có một người phụ nữ
ở cõi âm đã yêu anh nên không cho anh yêu và lấy ai cả. Bà con theo dõi, thấy
chiều chiều thay vì đi nhậu như những người đàn ông khác, anh lại ra đứng nhìn
chăm chăm vào cục đá to hơn ngôi nhà nằm ở cuối vườn. Nghe nói cục đá này đã có
từ thuở ông bà của anh đến đây khai hoang, nhưng không hiểu sao gia đình vẫn để
nguyên cho đến hôm nay. Mấy ông “thầy đá” bảo, do đã tồn tại trên trái đất hàng
triệu năm nên trong mỗi hòn đá luôn có một linh hồn người chết nhập vào, và nó
rất thiêng. Xâu chuỗi tất cả những “kiến thức” đã biết, các chị kết luận anh
Toàn “mắc bệnh đàng dưới”. Các chị tự thấy phải có trách nhiệm theo dõi từng
“hành vi” của anh Toàn, mặc dù nhiệm vụ này chẳng có con ma nào phân công!
Một buổi sáng, kẻ mua người bán ở chợ rỉ tai nhau, hồi
đêm anh Toàn đi sửa điện cho nhà cô Mai! Có người phân vân, là có thấy cô Mai tới
nhà anh Toàn đâu mà nhờ? Một chị nói: “Lạc hậu quá bà ơi, thời buổi này mấy đứa
giữ trâu cũng dùng điện thoại di động rồi”. Bàn cãi tranh luận chán, ai cũng thấy
chuyện này vẫn còn đáng để hồ nghi.
Đến lúc này, câu chuyện đi thu thuế nông nghiệp của
anh xóm trưởng vẫn còn lưu trong bộ nhớ của những người đàn ông trong xóm.
Trong một cuộc nhậu, có người hỏi: “Dạo ni xóm trưởng còn đi “chân nhện”
không?”. Xóm trưởng nốc một ly rượu rồi bình thản trả lời: “Người ta có đồng
tình thì mình mới đi chân nhện,chứ họ không thích thì đi sao được?”. Những
khuôn mặt đang sần sần vì rượu bỗng đơ lại, không nhúc nhích, hình như họ chỉ đồn
đãi chứ không hề mong chờ điều đó.
Mẹ của Mai qua đời, cả xóm bỏ việc kéo để đến phụ giúp
Mai lo cho bà được mồ yên, mả đẹp. Người tận tâm nhất trong cuộc ma chay đó
chính là anh Toàn. Toàn tham gia từ việc dựng rạp, đào huyệt, thậm chí cùng âm
công khiêng hòm bà đi chôn. Chuyện tưởng rất bình thường nhưng mọi người ai
cũng để ý rồi mang ra bàn tán, như để khẳng định anh Toàn đã “dính” với cô Mai.
Một chị nói to bằng giọng Quảng Nam: “Đám mô anh Toàn cũng làm nhiệt tình như rứa
chứ riêng chi đám ni?”. Tất cả im lặng. Một chị đứng lên, đưa tay thật cao rồi
nói to: “Sory. Sory”. Mọi người cùng cười to.
Từ một làng quê nghèo, xã bỗng chuyển mình lên thị trấn,
mà biểu hiện đầu tiên là giá đất ở, đất ruộng tăng vùn vụt. Từ chuyện giá đất
tăng, đề tài về cô Mai và anh Toàn lại tiếp tục được thảo luận sôi nổi. Một chị
đã U50 to miệng: “Nhà thằng Toàn với con Mai đều có vài hecta đất, nếu bán thì
tụi nó thành triệu phú đô la Mỹ cho mà coi”. Nghĩ, tụi hắn cũng dại, sao không
bán đất bán nhà mà xài cho sướng? Toàn cả ngày chỉ nhìn chăm chăm vào máy vi
tính, rồi nhìn chăm chăm cục đá sau nhà, rượu chẳng uống, gái gú chẳng dám
nhìn. Con Mai còn dại hơn, cả ngày chỉ biết chăm lo cho mấy cây xoài, cây mít
trong vườn chứ không thấy đi chơi đâu cả. Thà chồng nó chết thì ở vậy cho đành,
để không chạm vào nỗi đau của con cái và họ hàng, chớ đã ly dị thì tội gì mà
không môi son, má phấn, diện áo đầm, nhuộm tóc nâu tóc đỏ rồi sắm xe tay ga đi
hát Karaoke, nhảy nhót với người ta cho vui? Cuộc sống đang đi lên, tội gì mà
mình không sống như mấy người ở thành thị cho sướng cái thân?
Trong xóm có anh Nghệ, trước đây chuyên nghề cưa gỗ.
Nhóm thợ cưa của hắn đi làm ăn khắp nơi trong cả nước, hay nói đúng hơn là phá
rừng từ Nam ra Bắc, rồi phá vét từ Bắc vô Nam. Bước chân của Nghệ tới đâu, rừng
ở đó tan hoang. Nói cũng có phần oan cho hắn, chứ thật ra những vùng rừng ở đó
tan hoang không phải do một mình hắn. Hắn chỉ là thằng làm thuê cho chủ để kiếm
cơm mà thôi. Rừng ở đây bị khai thác đến cạn kiệt không thuộc tội của Nghệ.
Cách đây khoảng chục năm, nhóm thợ cưa của Nghệ về tới vùng rừng này làm ăn thì
rừng còn ở gần và có rất nhiều gỗ quý như trắc, cẩm lai, gõ đỏ…Cả nhóm làm lán
trại trong rừng, vài ngày đi ra chợ một lần. Làm được gần một tháng, gỗ cưa ra
chưa bán được thì cả nhóm bị kiểm lâm
vây bắt trọn ổ. Khẩu súng AK lăm lăm dong cả bọn ra khỏi rừng. Vốn đã đi nhiều,
nghe nhiều, biết nhiều, Nghệ tin là kiểm lâm dùng súng chỉ để “hù” chứ không
dám bắn ai cả. Chính vì nghĩ vậy mà hắn đã xông đến cướp súng rồi kêu gọi cả
nhóm cùng chống trả những người thi hành công vụ. May mà cả ba anh kiểm lâm chỉ
bị thương nhẹ. Cả nhóm thợ cưa bị bắt trên đường tìm ra ga tàu để về quê. Mãn hạn
tù, vừa tuổi ba mươi, không hiểu vì duyên cớ gì mà Nghệ lại chọn nơi này để định
cư. Lúc này rừng đã hết nên Nghệ cũng được xoá luôn cái hỗn danh “lâm tặc” mà
nhiều người nguyền rủa. Nếu có ai hỏi vì sao không về quê thì Nghệ bảo, trở về
sau ba năm tù thì vợ đã dắt hai đứa con đi lấy chồng khác mất rồi. Nghe người
ta nói là người chồng sau rất thương hai đứa con riêng của vợ nên Nghệ cũng
không có gì vướng bận. Kể xong, Nghệ buông một câu nhẹ nhàng mà vô cảm: “Khoẻ!”.
Không hiểu được ai giới thiệu mà Nghệ về làm thuê cho
gia đình Mai. Mai làm cho Nghệ một cái chòi nhỏ ở trên mô đất ngoài ruộng. Hàng
ngày Nghệ chỉ việc chăm lo cho mấy hecta ruộng của gia đình Mai, rồi tự nuôi vịt
đàn đẻ trứng cho riêng mình. Đàn ông trong xóm kháo nhau: “Số thằng Nghệ sướng
thiệt, đêm trăng thanh, gió mát có mấy em không chồng ra ngủ chung với hắn đến
sáng”. Nhiều người lần mò đi hỏi ai đã “ăn nằm” với Nghệ, nhưng ai cũng chối
bai bải nên Nghệ hoàn toàn vô tội. Người phụ nữ mạnh miệng chối nhiệt tình nhất
là chị Mười xe ôm. Người ta gọi tên chị rồi kèm thêm chữ xe ôm là có nguyên
nhân của nó, chứ thật ra chị ta không biết đi xe máy.
Chị Mười đã hơn bốn mươi, thui thủi một mình vì bị chồng
bỏ do cưới nhau đã lâu mà không có con. Chị Mười có một chuyện mà cả xóm đều biết
và bàn tàn trong một thời gian khá dài. Có một dịp Mười về thăm quê, xe dừng ở
ngoài quốc lộ 1, lúc 10 giờ đêm. Từ đó về tới nhà phải đi thêm gần năm chục cây
số nữa. Một anh chạy xe honda ôm tuổi cũng “sồn sồn” đến mời Mười đi xe. Trên
đường về, trăng sáng, đường rừng vắng ngắt, Anh tài xế xe ôm bỗng nổi máu “giống
đực”. Nghĩ rằng vị khách đã “máu” giống mình, anh xe ôm dừng xe lại, và Mười lặng
thinh để cho bàn tay của anh xe ôm “tự do đi lại” trên cơ thể của mình. Mười
nói với một giọng rất tình cảm “Anh ơi! em chỉ sống một mình, về nhà em có giường
chiếu đàng hoàng chứ làm ở đây em không thấy sướng”. Xe về tới nhà lúc đêm đã
khuya. Khi vừa bước xuống xe, Mười đi thẳng một mạch vào nhà. Anh xe ôm gọi:
“Trả tiền xe chứ”. Mười trả lời dứt khoát “Tui cho anh rờ, mò từ lúc lên xe đến
giờ là quá nhiều rồi. Coi như trừ”. Anh xe ôm mất đứt một cuốc xe, không hiểu về
nhà sẽ trả lời sao với vợ?
Tình cảm của Mai và Toàn xem ra ngày càng khắng khít.
Cứ vài ngày, người trong xóm lại thấy Mai ghé nhà Toàn. Chuyện trai chưa vợ,
gái chưa chồng nên mọi người chẳng mấy bận tâm. Họ chỉ thắc mắc vì nhận thấy cuộc
sống của Toàn vẫn không thay đổi, nghĩa là vẫn cả ngày ngồi nhìn máy vi tính rồi
ngồi nhìn cục đá phía sau nhà.
Có một đêm ngoài đường tối bưng, Nghệ từ ngoài ruộng lần
mò đi vào xóm rồi núp vào phía ngoài vườn nhà Toàn để nhìn vào. Nghệ cố lắng
nghe những âm thanh trong nhà phát ra nhưng không rõ lắm. Nghệ nhè nhẹ đi vào
sát hông nhà rồi nhìn qua khe hở của cánh cửa. Toàn đang giảng bài cho mấy đứa
nhỏ, trong đó có con gái của Mai. Hắn rờ cái dao dắt sau lưng, thầm nghĩ: May mắn
là không có cô Mai!
Cứ khoảng mươi ngày, nửa tháng lại có một chiếc ô tô
con chở những nam nữ thanh niên sang trọng về đậu trong sân nhà Toàn. Họ ở chừng
một buổi rồi đi. Lúc đầu người ta không để ý, nhưng việc đó cứ lặp đi lặp lại
hoài nên bà con cũng thắc mắc, vì ở vùng miền núi này làm gì mà có người sang
trọng về thăm? Có người nói, “chắc là thằng Toàn hoạt động tình báo”. Nghe vậy
có người phán ngay: “Cái thằng mắc bệnh đằng dưới như nó thì hoạt động tình
báo, tình biếc cái quái gì?”
Có một chuyện xem ra cũng khá động trời ở cái khu ven
rừng này, là một hôm, vợ của Nghệ bỗng đưa hai đứa con gồm một gái và một trai
vào tìm. Cả ba mẹ con đều ốm yếu và ăn mặc vẻ nghèo khổ. Nghệ trốn biệt. Đàn vịt
không ai cho ăn kêu váng cả đồng. May mà ngày hôm sau có một bà không chồng
quen lệ tìm ra nên đàn vịt không bị chết đói. Đàn vịt không đói nhưng vợ con của
Nghệ thì đói. Cả ba mẹ con ngồi khóc bên vệ đường trước cổng nhà Toàn. Toàn đưa
vợ con của Nghệ vô nhà mình cho ở nhờ. Sự xuất hiện của vợ con Nghệ ở nhà Toàn
khiến mọi người chú ý, và họ nhận ra là lâu nay, Mai đến nhà Toàn không phải vì
tình cảm riêng tư mà chỉ đến nhờ Toàn dạy cách sử dụng máy vi tính.
Người đi tìm Nghệ về chính là Toàn. Khi thấy mặt Toàn,
Nghệ biết rằng mình phải làm chuyện gì tiếp theo. Dù chưa thấy mặt vợ con nhưng
Nghệ cũng biết là Toàn đang cưu mang vợ con của mình. Nghệ thầm trách, tại sao
Mai lại chỉ nơi “trốn” của Nghệ cho Toàn biết? Khi đi, Nghệ không nói với ai,
ngoài Mai. Những năm tháng về sống ở cái xóm ven rừng, đến lúc này Nghệ cũng
không hiểu tình cảm của mình dành cho Mai là gì nữa. Đối với Nghệ, Mai là một
bà chủ, một ân nhân, một người em, một người bạn hay một thứ tình cảm gì đó mà
Nghệ không hiểu được.
Nghệ nhớ lại cái ngày mới ra tù, ngồi uống rượu một
mình trong quán ở ven rừng thì gặp Huy. Trong tâm trạng chán chường Nghệ chẳng
cần quan tâm tới ai chung quanh. Huy cầm ly rượu đến trước mặt Nghệ:
- Thấy chú mày buồn quá, tao mời chú một ly, được chứ?
Hai gã đàn ông đang buồn những nỗi buồn khác nhau, nhờ
ly rượu mà bỗng chốc trở nên thân thiết. Và đêm đó, Huy đưa Nghệ về nhà. Sáng
ra, không biết phải đi đâu, nên Nghệ dễ dàng nhận lời ở lại làm thuê cho gia
đình Mai. Khi vợ chồng Mai ly hôn, điều yêu cầu duy nhất của Huy là mong Mai đừng
đuổi Nghệ.
Nghe Toàn phân tích về hoàn cảnh của vợ con trong những
năm Nghệ đi làm rừng rồi đi ở tù, Nghệ nhận ra ở Toàn những điều không như nhiều
người đã nhận xét. Ngồi im lặng nghe Toàn nói chuyện, Nghệ rờ rờ những mấy sợi
râu mọc lưa thưa dưới cằm rồi buông thõng: “Muốn bỏ vợ cũng không dễ!”. Toàn im
lặng, không nói gì thêm.
Nghệ đưa vợ con về ngôi nhà nhỏ ở ngoài ruộng. Nghe
Toàn nói mọi người mới vỡ lẽ, là trong thời gian Nghệ ở tù, do quá nghèo và phải
nuôi hai đưa con nhỏ nên người vợ chỉ đi thăm chồng được một lần. Sự ngóng trông
lâu ngày tích thành oán hận, nên khi ra tù Nghệ không muốn về quê nữa. Thật ra
vợ Nghệ không lấy chồng khác như Nghệ nói lâu nay.
Ông xóm trưởng nói oang oang trong quán nhậu ở đầu
xóm: “Thằng Toàn thấy ngơ ngơ vậy mà nó giỏi thiệt. Không hiểu nó nói cách gì
mà vợ chồng con Mai với thằng Huy xáp lại với nhau rồi”. “Sao anh biết?”. “Thì
tụi nó đi đăng ký kết hôn lại ngày hôm qua rồi”. Mọi người đều cười vui. Niềm
vui, nỗi buồn của người dân ở đây cũng khá đơn giản. Người ta chia tay họ cũng
vui, người ta đoàn tụ họ cũng vui. Ông xóm trưởng nói để mọi người trong quán
cùng nghe: “Đứa nào giúp cho nhau tìm được hạnh phúc là tao mừng lắm rồi!”
Kết nối một cuộc tình đã ly tán là điều không dễ dàng
nhưng có hai người đã làm được, đó là Toàn và Nghệ. Hai người rủ nhau đi tìm
Huy. Lúc đó Huy đang sống ở một tỉnh khác. Cuộc sống của Huy chưa phải bi đát
cho lắm nhưng vẫn cô độc và nghèo khổ. Ban ngày Huy uống rượu và làm thơ nhưng
ban đêm lại đi cạo mủ cao su cho nông trường. Trong những năm tháng xa vợ con,
Huy đã hiểu được khả năng làm thơ của mình ở mức nào. Thơ là một cái gì đó rất
gần nhưng cũng quá xa mà không phải ai cũng chạm tới được. Nếu có thơ hay thì
đã hay từ hồi tuổi trẻ. Lúc này Huy mới thấy được là bản thân mình không đủ sức,
không đủ tài năng để tìm đến đỉnh cao của thơ, vậy nên chỉ làm thơ cho vui mà
thôi, còn ai khen chê thì mặc họ. Sau những ngày ly biệt, thứ tài sản mà Huy
đưa về cho vợ, cho con là một thân hình ốm nhách cùng một thùng giấy đựng mì
tôm, trong đó chứa đầy bản thảo thơ.
Ngôi nhà của Toàn vẫn sáng đèn mỗi đêm, khu vườn sạch
đẹp nhưng thực ra Toàn đã về thành phố sống từ lâu rồi. Ngày ngày vợ của Nghệ vẫn
vào dọn dẹp, chăm sóc nhà và vườn cho đến chiều mới về nhà mình ở ngoài đồng.
Tiền công của vợ chồng Nghệ vẫn được Toàn chuyển trả hàng tháng. Bà con trong
xóm đã biết được Toàn là một đại gia thật sự chứ không phải như bà con đã nghĩ.
Toàn là chủ tịch hội đồng quản trị của một công ty điện ở trên thành phố. Lâu
nay Toàn vẫn điều khiển việc kinh doanh của công ty qua máy vi tính.
Cuộc sống của những người ở ven rừng nơi đây vẫn tiếp
tục trôi đi. Lâu lâu lại rộ lên một chuyện của ai đó để bà con bàn tán, rồi sau
đó đi vào quên lãng. Chính họ đã sống được bằng niềm vui, nỗi buồn của chính
mình và của người khác.
Khoảng ít năm sau, Toàn đưa vợ con về thăm xóm. Vợ chồng
Toàn nói đã thống nhất bỏ tiền xây dựng một khu nuôi dưỡng người già cô đơn
ngay trong đất vườn của nhà mình. Trong năm năm đầu, nhà dưỡng lão sẽ nhận nuôi
ba chục cụ, sau đó sẽ nuôi đủ ba trăm cụ. Họ nhờ vợ chồng Nghệ và Huy quản lý.
Vợ chồng Huy hứa sẽ cung cấp miễn phí đủ gạo ăn cho các cụ. Điều mà mọi người đều
bất ngờ là chị Mười xe ôm xin tình nguyện vào làm việc ở khu dưỡng lão không nhận
lương, tới khi không còn làm việc được nữa thì xin được ở lại trong đó cho tới
chết. Bà con cả xóm vỗ tay rần rần. Riêng ông xóm trưởng nhà ta thì cười híp mắt.
Trại sáng tác Đà Nẵng, tháng 8/2019
Trần Duệ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét