BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Hai, 22 tháng 6, 2020

VIẾT VỀ NGƯỜI BA CỦA TÔI - Lê Phước Sinh




VIẾT VỀ NGƯỜI BA CỦA TÔI 
FATHER' S DAY -  21 tháng 6. 2020 
                                                               Lê Phước Sinh

Chiếc xe đạp giàn ngang, màu xanh nước biển buổi sáng đưa con đến trường Tiểu học Trần Quốc Toản trong Nội Thành.
Tan việc, vội vội vàng vàng, Ba chờ đón con bên hàng Phượng trước cổng. Trưa Hè trời nắng chang chang. Sáng Đông se lạnh u u âm âm gió buốt.
Ngày ngày. Năm, sáu năm đi học trường xa, Ba là Bạn - Cùng -  Lớp,  luôn  thấp thoáng cạnh con ngồi...

Ba sinh năm 1920 (Tân Dậu) tại làng Thượng Xá, Hải Thượng, huyện Hải Lăng, Quảng Trị. Gia đình có 4 anh chị em : “Lực - Điền - Viên - Cận”. Ba là con út. Khu vườn nằm ngay trên đường quốc lộ 1 (cũ) bên cạnh hói nước chảy qua Cống Lở về dòng sông Nhùng. Là vùng đất bồi nên vườn khá tốt, cây trái quanh năm hoa quả xanh tươi. Gia đình thuộc diện “tiểu nông”  sống cần kiệm, chu tất. Cách nhà khoảng cây số là nhà thờ La vang.

Thuở thiếu thời Ba đi học ở lớp tư trong làng (bác Giáo Châu), sau đó xin vào học Trường Tiểu Học Công Lập, cho đến khi thi đỗ bằng “Sơ học yếu lược” thì nghỉ. Lúc bấy giờ Ba đã có một số trình độ cơ bản về tiếng Pháp, Hán. Phụ việc đồng áng cùng gia đình một thời gian. Khoảng năm 1940, Ba mua vé xe lửa, một túi hành lý xuôi vào Nam tìm công ăn việc làm... Xuống Quảng Ngãi, tại ga Bồng Sơn, Ba được nhận vào phụ việc. Những công việc nặng nhọc vất vả cần sức trai trẻ, nhanh lợi... Ba đều vào cuộc... Cũng có lúc làm việc “bẻ ghi” tại Ga (tàu), có khi cầm Đèn Gió đi tuần đường rail giữa đêm khuya, mưa lạnh... Ba chính thức là công nhân ngành hỏa xa của Pháp thuộc Liên Khu 5, luân chuyển trong địa bàn Nam-Ngải.

Ba là người khéo tay và sáng dạ, cần kiệm... ngoài giờ, Ba thường nhận làm thêm gò, chữa các nông cụ, đồ dùng gia đình... như lưỡi cày, cuốc, dao, rựa, liềm, xoong nồi, ấm nước... Về mộc, Ba có thể cưa bào, đóng bàn ghế... Về điện, có thể những sửa chữa những động cơ vận hành không quá phức tạp... Vì vậy Ba được nhiều người thương quý, giúp đỡ.
Sau thời Pháp rồi Nhật. Hiệp định Đình Chiến 1954 ký kết, Ba quyết định về lại quê Quảng Trị. Tháng 03. 1955, Ba vào Huế, xin việc làm. Điều kiện: trong độ tuổi phải đi quân dịch. Nhập ngũ, sau mấy tháng huấn luyện, Ba được tuyển vào Quân Vận, học tài xế, đóng tại  “Bồ-ghè”. Cuối tháng 12, lập gia đình. Trong trận bão mùa đông 1957, khi cùng anh em che giữ mái tole của doanh trại,  Ba bị té, chấn thương, phải chuyển vào quân y viện Duy Tân, Đà Nẵng chữa trị.

Trong hai năm 1956, 1957...  Ba mua sách, tự học chương trình lớp nhì, lớp nhất rồi đi thi lấy bằng Tiểu Học, theo dạng thí sinh tự do, đỗ khóa 1957.
Tháng 12, 1958  được đưa ra Hội Đồng Giám Định Y Khoa xét, cho giải ngũ với giấy chứng nhận “Phế Thải Vĩnh Viễn Số 2”.
Tháng  02.1959, Ba viết đơn và được nhận vào làm tài xế cho Tòa Viện Trưởng Viện Đại Học Huế, thường lái chiếc xe màu xanh 12 chỗ ngồi, đưa đón giáo sư và sinh viên đi công tác, thực tập. Giúp đỡ, hướng dẫn Ba chân tình, gần gũi là Bác Nguyễn (văn) Trường - Chủ sự Phòng nhân viên, người cùng quê  Quảng Trị, từ giai đoạn đầu và  thân thiết mãi đến sau nầy. Đầu năm 1964, Ba chuyển công tác từ tài xế ở Tòa Viện trưởng về Trường Đại Học Khoa Học Huế làm công tác Tống Thư Văn (giao nhận công văn, thư từ)  đến tháng 5.75 ; sau  đó  chuyển làm công tác bảo vệ  cho đến giữa những năm 1980.

BA là người  mẫu mực về  việc học hành, của  các con: giờ giấc theo đúng quy định. Trong phòng học của gia đình, mỗi người có một vị trí riêng, trước mặt là bản Thời Khóa Biểu dán  giấy, sách vở cặp táp  đồ dùng đặt gọn gàng, bao bọc chỉnh chu, không được quăn góc, nhàu  nát . Giờ học bắt đầu thường buổi sáng sớm, chừng độ 5 giờ, khi học phải đọc lên trọn thanh âm, dù nhỏ nhẹ, câu chữ rõ ràng. Ba bảo: buổi sáng thức dậy, đầu óc còn “thanh khiết”  dễ dàng “nhập tâm”. Học bài cũ hôm trước để  khi lên lớp Cô Thầy dò khảo, kế xem sơ bài giảng trước để xem hôm nay sẽ học cái gì... Ba  còn dặn, sau giờ học ở trường về, nghỉ mệt một chút, lấy cặp sách vở ra, xem qua “còn mất, thiếu, đủ” lời dặn dò, bài tập về nhà của  Thầy Cô...

Khi các con học ở trong, bên giường ở phòng kế, Ba ngồi hút thuốc, đôi lúc nghe radio, với thanh âm nhỏ, như ngồi cùng để  “đồng hành” với các con. Những đợt nghỉ dài ngày: hè, tết Ba ra bài tập  con cái làm thêm :  Toán pháp trong sách trong sách Trần Tiếu, Cao Văn Thái;  luận văn, tập làm văn với các đề: ca dao , tục ngữ , thành ngữ , Ba  biết  một số  căn bản  về tiếng Pháp, tiếng Hán, thỉnh thoảng Ba  giảng giải cho các con, tạo  những “ngoại khóa” rất lý thú...

BA đã rời con cháu mấy chục năm nay.
Những kỷ vật như chiếc radio, thẻ nằm viện, bài thơ Ba viết... đặt trên đầu tủ thờ như vẫn vương vấn, gợi nhớ những hình ảnh  ngày xưa...

                                                                                   Lê Phước Sinh

Không có nhận xét nào: