Nhà bình thơ Phạm Đức Nhì
MÓN QUÀ TRÊN FACEBOOK
Tôi kết bạn FB với Trần Thị Ngọc Hồng - giáo viên về
hưu - được khoảng 1 tuần thì trong một lần trao đổi trên messenger chị có nhã ý
gởi cho tôi mấy bài thơ để… đọc chơi. Tôi có tật mê thơ còn hơn mê gái nên ngừng
trò chuyện là lấy ra đọc ngay. Và tôi hết sức kinh ngạc khi lướt qua đoạn đầu của
Người Đàn Bà Trong Ngôi Nhà Có Đàn Ông. Tôi khoái bài thơ ngay sau lần đọc đầu
tiên. Đọc đi đọc lại vài lần thì từ “khoái” chuyển thành “mê” lúc nào không biết.
NGƯỜI ĐÀN BÀ TRONG NGÔI
NHÀ CÓ ĐÀN ÔNG
Người
đàn bà trở thành đàn ông
trong
ngôi nhà có đàn ông
chèo
thuyền đàng lái
con
mèo nhỏ nhe nanh hổ cái
vồ
khuyết vầng trăng
Người
đàn bà dan díu cùng rơm rạ sình non
lấm
lem số phận
đôi
gót son từ độ phong trần
mong
gì lòng nhân từ của đá?
Đêm
nhận mặt nỗi đau
biển
đời bập bềnh sóng cả
người
đàn bà nương theo tiếng cười hồn nhiên con trẻ
quay
v
tần
ngần
rồi
bỏ lại phía đam mê.
Trần Thị Ngọc Hồng
TÂM SỰ CỦA AI?
Tác giả, không như lệ thường, viết ở ngôi thứ nhất mà
mượn một nhân vật khác ở ngôi thứ ba, một “người đàn bà” nào đó, để bày tỏ tâm
tình của mình. Viết kiểu này, nếu không khéo nhập vai, dễ thành kẻ bàng quan,
“thương vay, khóc mướn”, và tác phẩm, có khi vì thiếu sự hiện diện và tâm tình
của “cái tôi riêng tư” sẽ chỉ là một thứ cây dị chủng trong vườn thơ.
Ở đây nữ sĩ Trần Thị Ngọc Hồng, bằng cảm xúc mạnh mẽ của
mình, chỉ trong mấy câu thơ đầu ngắn ngủi, đã cho độc giả thấy “tâm sự đó là của
tui, người đàn bà kia với tui là một.”
Cảm được điều đó, đọc tiếp bài thơ sẽ dễ thấm hơn.
TỨ THƠ
Tứ thơ - nếu nhìn thoáng qua – có vẻ như được gói gọn
trong 2 câu đầu:
Người
đàn bà trở thành đàn ông
trong
ngôi nhà có đàn ông
Tác giả bộc bạch tâm trạng của người đàn bà, trước
hoàn cảnh xã hội nghiệt ngã, trớ trêu, trong nhà có đàn ông, nhưng có cũng như
không, nên đành phải xắn tay áo đứng vào vị trí của người đàn ông để gánh vác
gia đình.
LẤY HOÀN CẢNH TA SUY RA HOÀN CẢNH NGƯỜI
1/ Cuối Năm 1983
Trong thời gian ở Trại Trừng Giới A20, do những hoạt động
chống đối, tôi bị đánh dập xương sống, liệt hai chân, rối loạn cơ tròn, đái ỉa
tại chỗ. Nhân có phái đoàn y tế của Cục Trại Giam đến thanh tra, tháng 9/ 1983
– sau 8 năm 4 tháng cải tạo - tôi được đề nghị thả vì lý do nhân đạo. Tôi được
xe bò chở ra khu nhà dân gần đấy và được một chị vợ tù đi thăm nuôi chồng đưa
ra ga La Hai lên xe lửa về Sài Gòn.
Là đàn ông, tôi không giúp đỡ gì được cho mẹ già, vợ
chồng đứa em, hai đứa cháu mà trở thành gánh nặng lớn cho gia đình. Trong thời
gian 6 tháng tìm thầy chạy thuốc, tôi đã chính mắt thấy mẹ mình thay đổi từng
ngày, biến dạng cả về nét mặt, tâm tính, cách cư xử, để “trở thành đàn ông
trong ngôi nhà có đàn ông”.
Những người tù cải tạo khác được thả về trước tôi chút
ít (và sau này), có vợ con, không bệnh hoạn như tôi, đến thăm cũng lắc đầu chua
chát: “Đánh bài bây giờ tụi mình chỉ là tay con, còn thì toàn đàn bà cầm cái”.
Lý do: Là “Sĩ Quan Ngụy” hoặc dính líu ít nhiều đến chính quyền chế độ cũ nên hầu
hết những công việc chúng tôi có khả năng (và chuyên môn) để kiếm sống, đều bị
cấm đoán.
2/ Năm 1990 Và
5 Tháng Đầu 1991
Đoạn đời kế tiếp của tôi có thể tóm tắt như sau: Trời
thương, lành bệnh, vượt biên trong Nam, bị bắt, 4 năm sau được thả, ra Bắc, gặp
và sống chung với bà xã bây giờ. Nhờ “ở xứ mù kẻ chột làm vua” nên gầy dựng được
mấy lớp dạy Anh Ngữ đàm thoại tại 2 khách sạn lớn (Bộ Điện Lực, Bộ Nội Vụ) và một
số lớp tại nhà riêng của những gia đình có máu mặt ở Thị Xã Đồ Sơn, Hải Phòng.
Nhưng chỉ 4 tháng sau , “vết đen lý lịch” lan truyền, nên dù được Trưởng Phòng
Giáo Dục và Chủ Tịch UBND Thị Xã ủng hộ (vì Anh Ngữ lúc đó rất cần), các lớp học
cũng bị công an đến tận nơi giải tán.
Hai vợ chồng và đứa con riêng của vợ phải sống bằng đồng
lương chết đói của “người đàn bà”. Không có tiền “đấm mõm” cho công an, bị bới
móc, hạch sách đủ điều, không làm được bất cứ việc gì phụ giúp vợ trong cuộc sống.
Tôi lại trở thành “người đàn ông có cũng như không” như biết bao người đàn ông
khác ở Miền Nam lúc đó – vì lý lịch xấu nên trở thành “bất khiển dụng” để vợ
“nhe nanh hổ cái” cầm chịch gia đình. Vợ tôi cuối cùng phải gạt nước mắt bán tống
bán tháo nửa mảnh đất của căn nhà lấy 6 chỉ vàng để đóng tiền cho 3 người vượt
biên qua Hồng Kông.
Sợ tác giả bài thơ áy náy khi lời bình của tôi, không
nhiều thì ít, cũng chạm đến chỗ nhột của phu quân nên tôi đưa “cái tôi ngượng
ngùng” của mình vào bài viết để mọi người thấy rằng lúc ấy có đến cả vài trăm
ngàn (1) thằng đàn ông “có cũng như không” như tôi, và cũng có hàng vài trăm
ngàn “người đàn bà” phải “trở thành đàn ông” như Trần Thị Ngọc Hồng.
DÀN TRẢI TỨ THƠ
Tứ thơ đã nhận diện ở 2 câu đầu. Chi tiết của tứ thơ
được dàn trải thành 3 đoạn:
1/
chèo
thuyền đàng lái
con
mèo nhỏ nhe nanh hổ cái
vồ
khuyết vầng trăng
Trần Thị Ngọc Hồng ví mình như con mèo nhỏ, vóc dáng
bé cỏn con nhưng bộ dạng, tiếng gầm gừ, thái độ (cách hành xử) đã thành con hổ
cái nhe nanh “vồ khuyết vầng trăng”.
Đoạn thơ này không sử dụng phép ẩn dụ nhưng thủ pháp
“gợi, không kể” đã đến mức tuyệt luân. Chị đã thét lên tiếng kêu than thảm thiết
của người phụ nữ. Xã hội nghiệt ngã, bất công đến mức người đàn bà đã phải quên
đi nét đẹp thùy mị, dịu hiền, thái độ mềm mỏmg, dễ thương của “phái đẹp”, phải
“múa vuốt, nhe nanh, phùng mang, trợn mắt” để sống còn. Đây là một ý thơ tuyệt
vời. Và cũng là nét nhân bản đầu tiên của tứ thơ.
Đoạn thơ làm tôi nhớ đến 4 câu thơ của Tố Hữu:
“Chuyện
cô du kích xóm Lai Vu
Rắn
quấn bên chân, vẫn bắn thù
Mỹ
hại trăm nhà, lo diệt trước
Rắn,
mình em chịu, có sao đâu!”
(Tâm Sự, Tố Hữu, thivien.net)
Nhà thơ có thời được dân Miền Bắc nâng lên hàng “Thi
Thánh”, kể chuyện cô du kích – trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, bom rơi đạn
nổ – đã biểu lộ thái độ can đảm đến mức chai lì, mất hẳn cái tính “sợ” rất
“phái yếu”, dễ thương của “phụ nữ”. Có điều Tố Hữu lại ca ngợi thái độ chai lì
đó, coi nó là một đức tính, kêu gọi những người phụ nữ khác lấy đó làm gương.
Hơn nữa, đây là đoạn thơ “kể và nói hộ tâm sự của người khác”, nặng tính tuyên
truyền, nhẹ về cái đẹp nghệ thuật. Đặc biệt câu cuối “Rắn, mình em chịu, có sao
đâu” rất gượng gạo và … quá xa sự thật.
Trong khi hai câu của Trần Thi Ngọc Hồng
“con
mèo nhỏ nhe nanh hổ cái
vồ
khuyết vầng trăng.”
về luật tắc thì phóng túng, ngôn ngữ tượng hình, ý
nghĩa sâu sắc, là tâm sự của chính tác giả nên tự nhiên, và đặc biệt, thấm đẫm
chất thơ.
2/
Người
đàn bà dan díu cùng rơm rạ sình non
lấm
lem số phận
đôi
gót son từ độ phong trần
mong
gì lòng nhân từ của đá?
Tác giả, do “số phận lấm lem” nên đau đớn quá thốt lên
lời than vãn chứ đâu có mong đợi gi ở “lòng nhân từ của đá”. Trong một lần trao
đổi qua Messenger trên FB chị tâm sự: “Khi viết ‘lòng nhân từ của đá’ em nghĩ đến
câu ‘Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng’ trong bản nhạc Một Cõi Đi Về của Trịnh
Công Sơn”. Theo tôi, đó là cách suy nghĩ rất “hiền lành”, ngừng ở “cái nghiệp”
của mình, ở “hoàn cảnh xã hội nghiệt ngã, bất công”, không đi xa thêm nữa.
3/
Đêm
nhận mặt nỗi đau
biển
đời bập bềnh sóng cả
Đêm về tĩnh lặng, tâm lắng đọng mới “thấy” hết cái “nhức
buốt” trong ruột gan, mới thấy nỗi đau của mình to lớn đến nhường nào. Ngoài
kia biển đời vẫn “bập bềnh sóng cả”.
người
đàn bà nương theo tiếng cười hồn nhiên con trẻ
quay
về
tần
ngần
rồi
bỏ lại phía đam mê.
Đoạn thơ này gợi nhớ tới bài thơ ngắn của Đồng Đức Bốn:
CHĂN
TRÂU ĐỐT LỬA
Chăn
trâu đốt lửa trên đồng
Rạ
rơm thì ít gió đông thì nhiều
Mải
mê đuổi một con diều
Củ
khoai nướng để cả chiều thành tro.
Củ khoai: Bữa ăn của trẻ chăn trâu – cái thiết thực của
cuộc sống.
Con diều: Trò chơi, lạc thú, niềm đam mê và cũng là thức
ăn cho phần hồn của cậu bé nói riêng và con người nói chung.
Ngụ ý của tác giả là: Con người nhiều khi chạy theo những
cái viển vông, bay cao tít trên trời mà quên đi những thứ thiết thực, gắn bó với
cuộc sống, ngay trên mặt đất. Nhưng cũng chẳng có gì nuối tiếc vì những thứ viển
vông, cao tít đó chính là thức ăn cho tinh thần, cho phần hồn của con người; đó
chính là niềm vui, hạnh phúc mà vật chất không thể tạo ra được.
Cậu bé chăn trâu đã quên củ khoai - bữa ăn trưa - để
đuổi theo con diều, thỏa mãn niềm đam mê của mình.
Trần Thị Ngọc Hồng thì ngược lại. Chị không còn là đứa
bé vô tâm - chỉ biết chăn trâu, còn những mặt khác của cuộc sống đã có người lớn
lo – mà là “người đàn bà trở thành đàn ông trong ngôi nhà có đàn ông”, phải
gánh trách nhiệm lớn lao của người chủ gia đình. Do đó, “con diều”, thú vui,
món ăn tinh thần … đành phải “bỏ lại phía đam mê”. Không đành lòng cũng phải bỏ
lại, để có thể về với “tiếng cười hồn nhiên con trẻ”. Cũng “tần ngần”, cũng tiếc
nuối, nhưng nghịch cảnh của cuộc đời đã buộc chị phải chọn lựa - một chọn lựa
xót ruột, đau lòng vì không thể vẹn cả đôi đường.
Dĩ nhiên, về với “tiếng cười hồn nhiên con trẻ” là
“thiên kinh địa nghĩa”, chẳng ai có thể chê trách chị một lời nào. Nhưng phải
“bỏ lại phía đam mê” - gần như mất cả phần hồn của con người – thì tội nghiệp
cho chị quá. Mà đâu phải chỉ mình chị. Còn biết bao “người đàn bà” cùng hoàn cảnh
như chị - để tìm sự sống còn cho chính mình, cho chồng con giữa một xã hội khắc
nghiệt, bất công, bất nhân - đã phải quay lưng lại “phía đam mê”, đóng chặt cửa,
để mặc tâm hồn mình ngày càng héo úa. Ý thơ này cũng không kém phần sâu sắc, độc
đáo, và là nét nhân bản thứ hai của tứ thơ.
TỨ THƠ HIỂU SÂU SUY RỘNG
Do hoàn cảnh xã hội nghiệt ngã, người đàn ông trong
nhà “có cũng như không” nên người đàn bà phải quên đi nét đẹp dịu dàng của phụ
nữ, trở thành đàn ông để chiến đấu cho sự sống còn của gia đình, những niềm
vui, những “món ăn” riêng tư cho tâm hồn mình đành “bỏ lại phía đam mê”.
Nhưng nếu hiểu đến tận cùng độ sâu của tứ thơ sẽ là:
Hoàn cảnh xã hội nghiệt ngã, bất công, bất nhân phát xuất từ chính sách phân biệt
đối xử đã chà đạp nhân phẩm, làm khô úa tâm hồn hàng mấy trăm ngàn người phụ nữ
Miền Nam, khiến trên vùng đất hiền hòa ấy bỗng xuất hiện muôn vàn khuôn mặt
gian dối, lạnh lùng, vô cảm.
Tính nhân bản rất rõ nét, sâu sắc và độc đáo.
HÌNH THỨC THƠ
Bài thơ có vóc dáng gần như tối ưu – số chữ trong câu,
số câu trong bài tùy tiện, phóng túng. Các câu từ 2, 3 chữ đến 10, 11 chữ đều
được sử dụng một cách thoải mái tự do, không có vẻ ngại ngùng, do dự hay gượng
ép. Theo lối cách dòng và viết hoa, bài thơ được chia làm 3 đoạn nhưng đọc lên
vẫn “nhất khí liền mạch”, những ý nhỏ của tứ thơ nối tiếp nhau chảy thành dòng
rõ rệt.
Vần chỗ có, chỗ không, chẳng gò bó theo quy luật nào
mà vẫn tạo được vị ngọt vừa phải, không nhiều đến mức ầu ơ, nhàm chán như những
thể thơ truyền thống, nhưng cũng không nhạt nhẽo, khô cứng như Thơ Không Vần hoặc
Thơ Văn Xuôi. Có thể nói nó là thứ Thơ Tự Do theo nghĩa cắt đứt hết những sợi
dây trói buộc – giã từ thơ truyền thống, vượt qua Thơ Mới và Thơ Mới Biến Thể.
Chỉ riêng về mặt hình thức thơ, giá trị nghệ thuật của Người Đàn Bà Trong Ngôi
Nhà Có Đàn Ông đã được nâng cao lên rất nhiều.
Mấy chỗ gieo vần làm nổi bật ý thơ:
1/
chèo
thuyền đàng lái
con
mèo nhỏ nhe nanh hổ cái
vồ
khuyết vầng trăng
2/
mong
gì lòng nhân từ của đá?
Đêm
nhận mặt nỗi đau
biển
đời bập bềnh sóng cả
người
đàn bà nương theo tiếng cười hồn nhiên con trẻ
quay
về
rồi
tần ngầ
bỏ
lại phía đam mê.
“Mê” vần với “về” đưa câu cuối của bài thơ, lúc đó
cũng là dòng nhạc, trở về chủ âm, khiến đoạn kết của bài thơ nghe xuôi tai, nhẹ
nhàng, nhưng đượm vẻ buồn bã, tiếc nuối.
CẢM XÚC
1/ Cảm Xúc Tầng 1: Cảm xúc tỏa ra từ câu chữ
Bài thơ viết theo lối Khí Tông – “nhất khí liền mạch”,
chú trọng tạo cảm xúc theo dòng chảy của tứ thơ – nhưng lại có nhiều chiêu thức
đẹp từ câu chữ, hình tượng, “tính văn chương” cao, tạo khoái cảm mạnh mẽ cho
người thưởng thức thơ.
2/ Cảm Xúc Tầng 2: Cảm xúc từ thế trận, từ sự phối hợp
nhịp nhàng của các phân đoạn, các ý nhỏ của tứ thơ.
Trong Người Đàn Bà Trong Ngôi Nhà Có Đàn Ông các phân
đoạn nối kết hợp lý, tứ thơ chảy thành dòng - nhẹ nhàng, nhưng có dòng chảy rõ
ràng – làm những độc giả thích bóng đá như tôi khoái chí vì “đấu pháp toàn đội”
gắn bó và hiệu quả.
3/ Cảm Xúc Tầng 3: Cảm xúc từ trạng thái tâm của thi
sĩ lúc làm thơ
Khác với Đỗ Trung Quân trong Tạ Lỗi Trường Sơn (2) và
Nguyễn Duy trong Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc (3), Trần Thị Ngọc Hồng chỉ mở lòng cho nỗi
uất ức từ sự cực khổ cả về thể xác lẫn tinh thần của mình trào ra chứ không để
tâm đến, mà còn có ý tránh né, những khía cạnh liên quan đến chính trị. Không lập
trường, phe phái, chẳng phản kháng, phản biện nên chữ tình trong thơ cô đặc
hơn. Cảm xúc tầng 3 của bài thơ, nhờ quy về một mối, nên thấm sâu hơn. Tuy
nhiên, vì bài thơ ngắn (chỉ có 89 chữ) khó tạo cao trào; hơn nữa, chị chưa đến
mức lạc thần trí hay nổi điên như Đỗ Trung Quân và Nguyễn Duy, nên mặc dù cảm
xúc tầng 3 khá mạnh cũng chưa đủ để hồn thơ xuất hiện.
KHUYẾT ĐIỂM
Bài thơ có một khuyết điểm nhỏ nằm ở tựa đề.
Tựa đề thường được hiểu là “một chữ hay một nhóm chữ
chỉ ra cái cốt tủy của toàn bài nhưng không làm lộ mạch thơ”. Cái tựa “Người
Đàn Bà Trong Ngôi Nhà Có Đàn Ông” không thỏa mãn được yêu cầu đó. Cốt tủy của
bài thơ nằm ở chỗ “Trở Thành Đàn Ông”.
Đây chỉ là lỗi
kỹ thuật. Nếu muốn, chị có thể tự mình sửa chữa để bài thơ hoàn chỉnh hơn.
NƠI TỤ HỘI ANH HÀO
Những bài thơ trên các thi đàn thì thường “được cái
này mất cái kia”. Tứ hay thì kỹ thuật thơ vụng hoặc ít cảm xúc; kỹ thuật thơ
nhuần nhuyễn thì tứ lại “đi vào con đường đã có hàng triệu dấu giầy”. Người Đàn
Bà Trong Ngôi Nhà Có Đàn Ông – ngoài một khuyết điểm nhỏ đề cập ở trên - may mắn
là nơi tụ hội anh hào; có 3 tiêu chí chính để thẩm định giá trị một bài thơ thì
hình thức thơ và tứ thơ ở mức xuất sắc, còn tiêu chí cảm xúc được đánh giá là gần
xuất sắc.
Để có chút “chỗ dựa” cho độc giả cảm nhận giá trị nghệ
thuật của bài thơ dễ dàng hơn tôi phá lệ đưa ra thang điểm của riêng mình:
1/ Hình Thức: Điểm 9,5 - trừ nửa điểm về lỗi kỹ thuật
đặt tựa đề.
Bài thơ có vóc dáng gần như tối ưu. Về hình thức, Trần
Thị Ngọc Hồng đã đi trước rất nhiều thi sĩ đương đại.
2/ Tứ Thơ: Điểm
10 – nhân bản, độc đáo, tuyệt vời.
3/ Cảm Xúc: Điểm
8 - Lấy tổng số điểm từ 3 tầng chia 3
a/ Cảm xúc
tầng 1: Điểm 10
b/ Cảm xúc
tầng 2: Điểm 9 - trừ 1 điểm ở đoạn giữa. Lý do: Là đoạn nối, kể lể, ít cảm xúc.
c/ Cảm xúc
tầng 3: Điểm 5 – tâm ở trạng thái đau khổ, uất ức khi làm thơ nhưng chưa đến mức
lạc thần trí, nổi điên; hơn nữa, bài thơ ngắn, dòng chảy không xiết, không có
cao trào. (Điểm 5 ở cảm xúc tầng 3 đã là hiếm)
Cảm xúc tầng 1 và tầng 2 đều mạnh, cảm xúc tầng 3 cũng
mạnh nhưng chưa đủ tạo hồn thơ.
Ngoài ra cũng phải kể đến cái đẹp cao sang của ngôn ngữ,
hình tượng mới lạ, sức gợi mạnh, ý nghĩa sâu sắc đầy tính văn chương của câu
thơ, đoạn thơ, đặc biệt ở 2 đoạn biểu lộ nét nhân bản của tứ thơ.
Tóm lại, Người Đàn Bà Trong Ngôi Nhà Có Đàn Ông là bài
thơ rất hay, xuất sắc trong cả 3 tiêu chí chính để thẩm định giá trị một bài
thơ. Do tứ thơ độc đáo, hình thức thơ gần như tối ưu, theo tôi, nó xứng đáng là
bài thơ đại diện cho thân phận đáng thương của phụ nữ Miền Nam Việt Nam trong
giai đoạn lịch sử sau năm 1975. Giai đoạn đó kéo dài đến thời điểm nào? Câu trả
lời xin nhường cho những sử gia sau này.
KẾT LUẬN
Cuộc đời Trần Thị Ngọc Hồng giờ đã bước sang một trang
mới. Mồ hôi, nước mắt của biết bao năm tháng kinh hoàng đã có chút đền bù. Những
“tiếng cười hồn nhiên con trẻ” nay đã trưởng thành. Hai cháu trai đã tốt nghiệp
đại học và có việc làm ổn định, đúng chuyên môn. Sống và làm việc ở Sài Gòn
nhưng cũng thường về thăm gia đình ở Tiền Giang. Và đặc biệt, lần nào về cũng
có chút ít đưa mẹ để gởi tiết kiệm. “Con mèo nhỏ” đã trở lại bộ mặt hiền lành,
dễ thương chứ không còn “nhe nanh hổ cái, vồ khuyết vầng trăng” như ngày nào.
Nhưng đó chỉ là vẻ bề ngoài. Vết thương đau buốt trong
tim đã liền mặt hay vẫn còn rỉ máu? Mảnh tâm hồn nhạy cảm ngày xưa đã trở lại
tươi xanh hay vẫn còn khô cằn, héo úa? Những câu hỏi đó chỉ có chị mới có thể cảm
nhận và có câu trả lời.
Có điều chắc chắn là chị đã trở lại “phía đam mê” và
nhờ tài thơ cùng những trải nghiệm đau thương, đã tặng cho đời một thi phẩm độc
đáo, mang một thông điệp đau buồn: Những năm sau 1975, ở Miền Nam Việt Nam, một
vùng đất mà con người được tiếng là chân tình, cởi mở, hiền hòa, đã “Có Những
Người Đàn Bà Như Thế”.
San Leon Tháng 6 /
2020
PHẠM ĐỨC NHÌ
nhidpham@gmai.com
CHÚ
THÍCH:
1/
Theo
Phạm Văn Đồng, con số người phải trải qua giam giữ sau này 30/4/1975 là hơn
200.000 trong tổng số 1 triệu người ra trình diện.
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8Dc_t%E1%BA%ADp_c%E1%BA%A3i_t%E1%BA%A1o_t%E1%BA%A1i_Vi%E1%BB%87t_Nam
Nhưng
một người dính líu đến chế độ cũ có thể “văng miểng” đến không chỉ những thành
viên trong gia đình mà còn cả bà con họ hàng nữa. Do đó số đàn ông “có cũng như
không” cũng như những “người đàn bà nhe nanh hổ cái” phải đến ít nhất vài trăm
ngàn.
2/
Tạ
Lỗi Trường Sơn – Bài Thơ Ngược Dòng Nóng Bỏng, Phạm Đức Nhì
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/07/ta-loi-truong-son-bai-tho-nguoc-dong.html
3/
Nhìn
Từ Xa … Tổ Quốc - Nỗi Đau Quặn Thắt Của Một Người Việt Yêu Nước, Phạm Đức Nhì
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/07/nhin-tu-xa-to-quoc-noi-au-quan-that-cua.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét