Nhà bình thơ Phạm Đức Nhì
Lời
Nói Đầu
Trong thời gian tra cứu để viết lời bình cho bài thơ
Tan Vỡ của nhà thơ Dư Thị Hoàn tôi đọc được bài viết “Dư Thị Hoàn: Từng Có 'Tan
Vỡ' Gây Chấn Động, Xuất Hiện Sau 10 Năm Đi Tu.” (1)
Trong bài viết có đoạn:
Ba năm trước, Dư Thị Hoàn tổ chức lễ “rửa tay chậu
vàng”, có nhiều bạn bè văn chương chứng kiến, tuyên bố không viết, không tham
gia văn đàn.
Trong một cuộc phỏng vấn, nhà thơ chia sẻ, thực ra quyết
định “bẻ bút” có từ trước đó, khi bà đọc được câu “Văn chương càng hay càng xa
sự thật”.
Vì là người làm thơ và bình thơ nên trong bài viết này
tôi sẽ chỉ đề cập đến khía cạnh thơ của câu nói trên. Các thể loại văn học khác
xin mời những cao nhân có kiến thức và kỹ năng thích hợp lên tiếng.
Câu trả lời là CÓ. Tuyệt đại đa số đều xạo. Có nhiều
kiểu xạo, nhiều lý do để xạo.
Sau đây là một số kiểu xạo trong thơ:
Dối
Trá Đời Thường
1/ Xạo vì hèn,
vì “teo chim” - tham sống sợ chết, thích yên thân, sợ tù đày, sợ bị trù dập - sản
sinh những câu thơ Nịnh.
2/ Xạo vì tham
lợi, tham danh - viết sai sự thật vì danh vọng, vì bả vinh hoa phú quý.
Đây là 2 kiểu xạo tệ nhất, làm đục, làm bẩn “dòng sông
thơ ca”.
3/ Xạo vì tình riêng – thơ về cha mẹ, vợ chồng, họ
hàng, bạn bè thân thuộc…
4/ Xạo vì xã giao - thơ đám ma, đám cưới, mừng sinh nhật,
đỗ đạt, thăng quan tiến chức …
Đây là 2 kiểu xạo mà người đọc dễ “thông cảm” cho qua,
nhưng thơ thường được đánh giá thấp.
5/ Xạo vì lập
trường, quan điểm, đứng về một phía của một vấn đề hai mặt, chỉ nói một nửa sự
thật.
“Ôi!
Đẹp quá phe mình, còn phe bên kia
Phải
chọn góc nhìn để chỉ thấy toàn điều xấu.” (2)
Thơ loại này đây đó cũng có bài hay nếu tác giả vững
tay nghề và cao hứng.
Xạo
Nghệ Thuật
1/ Lối nói thậm
xưng
Khác với dối trá đời thường (trong thơ), lối nói thậm
xưng là một kiểu “xạo” đầy tính nghệ thuật. Tác giả cũng “phịa” ra những điều
không thật nhưng với mục đích “để tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường
bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật”
Thí dụ:
Trong bài thơ Muốn Gởi Cho Em của thi sĩ Phạm Hữu T (tặng
Phượng Kim Ngọc Huỳnh) thì câu:
Muốn
gởi cho em
chút
gió biển Galveston
là một câu “xạo tới bến” vì gió từ biển Galveston (ở Mỹ)
làm sao gởi về Việt Nam được? Nhưng phần sau của đoạn thơ lại là những cái “có
lý trong nghệ thuật”.
Gió
từ Mỹ gởi về:
để
dịu bớt cái nắng Sài Gòn gay gắt.
Có lý quá đi chứ! Và hai câu kế tiếp:
nhưng
sợ người ta đang đi mà chợt mát
rồi
bồi hồi
nhớ
nhớ thương thương.
vừa trữ tình lãng mạn - khi mượn ý của Nguyên Sa trong
Áo Lụa Hà Đông - lại vừa khôi hài ý nhị.
Đoạn thơ thật tuyệt vời. (3)
(Xin mở ngoặc nói thêm: Bài thơ là của Phạm Hữu T với
cái tựa Muốn Gởi Cho Em; thí dụ trên được trích trong bài bình thơ Mối Tình
Xuyên Lục Địa của tôi (PĐN)
Đây là kiểu xạo nghệ thuật, “xạo dễ thương”, nâng cao
giá trị của bài thơ.
https://phamnhibinhtho.blogspot.com/2018/01/xao-nghe-thuat-trong-tho.html
2/ Xạo vì “xê dịch kịch bản”
Muốn thơ hay, tâm trạng phải thật, cảm xúc phải thật.
Đó là điều cốt yếu. Trường hợp kịch bản cũng hoàn toàn thật nữa thì quá tốt. Nếu
kỹ thuật thơ của thi sĩ nhuần nhuyễn, bài thơ sẽ dễ có nhiều cảm xúc, và nếu hội
đủ một vài điều kiện khác nữa, hồn thơ có cơ hội xuất hiện. Nhưng không phải
lúc nào kịch bản của bài thơ cũng “vừa khít” với tâm trạng. Đôi khi thi sĩ phải
xê dịch, điều chỉnh chút ít để có sự ăn khớp cần thiết.
Thử đọc đoạn cuối của bài Giấc Mơ Anh Lái Đò của Nguyễn
Bính:
Đồn
rằng đám cưới cô to
Nhà
giai thuê chín chiếc đò đón dâu
Nhà
gái ăn chín nghìn cau
Tiền
cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn
Lang
thang tôi dạm bán thuyền
Có
người giả chín quan tiền, lại thôi.
Tôi không tin là trong thực tế, con số chín hoàn toàn
phù hợp với số lượng những “thứ” mà ông nói đến trong bài thơ. Đúng là ông “phịa”;
nhưng ông “phịa” khéo quá, “cao tay ấn” quá, nên người đọc, theo dòng cảm xúc của
mình, đâu cần biết có đúng là chín chiếc đò đón dâu, có đúng là chín nghìn cau
hay chín nghìn tiền cheo, tiền cưới hay không, mà chỉ thấy cái khoảng cách giàu
nghèo giữa anh lái đò và tình địch hiện ra một cách rõ ràng và cay đắng, để rồi
cái cảm giác bàng hoàng đau đớn về mối tình vô vọng của anh lái đò đã như một
dòng thác đổ xuống, tràn ngập tâm hồn. (4)
Ở đây thủ pháp “gợi, không kể” được phối hợp với phép
điệp ngữ (chín) một cách tài tình đã dẫn đến 2 câu kết tuyệt vời.
Tuy nhiên, nếu kịch bản xê dịch quá nhiều thì cả bài
thơ sẽ bị đánh giá là xạo, không những mất hẳn giá trị nghệ thuật mà tác giả
còn bị chê bai, coi thường.
Mời đọc Một Kịch Bản Thơ Xạo theo link dưới đây.
https://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/06/mot-kich-ban-tho-xao.html
Xạo
Vì Có Sự Can Thiệp Của Vô Thức
Để có thể hội nhập và thích ứng với cuộc sống hàng
ngày của cộng đồng, mỗi con người đương đại phải tuân thủ rất nhiều nguyên tắc
giao tiếp, ứng xử trong xã hội. Xã hội càng văn minh số lượng nguyên tắc càng
nhiều. Sau khi vào đời một thời gian (dài ngắn tùy hoàn cảnh riêng) trong mỗi
thân xác con người có hai cái tôi cùng chung sống nhưng luôn đấu đá lẫn nhau để
đòi quyền làm chủ thân xác đó: cái tôi đích thực và cái tôi hội nhập với cuộc đời
– tôi tạm gọi là cái tôi văn hóa.
Tuổi đời càng cao cái tôi văn hóa càng mạnh, càng rõ
nét và cái tôi đích thực càng yếu kém, mờ nhạt. Đến một lúc nào đó cái tôi văn
hóa sẽ “đè bẹp” cái tôi đích thực để độc quyền chiếm hữu cái thân xác kia.
Lúc ấy, nói như Jean Paul Sartre (5) thì con người là
một “kẻ vong thân” (đánh mất chính mình). Còn nói như Albert Camus (6) thì con
người đích thực đã bất lực – để một “kẻ xa lạ” đến chiếm hữu thân xác mình. (6)
Những trải nghiệm, suy nghĩ, toan tính, dự định, ước
mơ … của ta sau một thời gian xuất hiện trên bề mặt ý thức, đều tự động đi vào
kho chứa - một cỗ máy vi tính khổng lồ nằm sâu kín trong tâm hồn ta từ “muôn kiếp
trước” (Tây Phương hiểu “muôn kiếp trước” theo nghĩa bóng, nghĩa là từ lúc đứa
bé có khả năng tiếp nhận thông tin từ xã hội để từng bước hình thành cái nhìn của
mình về cuộc đời; hiểu “muôn kiếp trước” theo nghĩa đen là cách hiểu của đạo Phật).
Cỗ máy tính khổng lồ đó chính là vô thức.
Nó không chỉ đơn thuần là một kho chứa mà còn làm công
việc tổng hợp và chuyển hóa (process) những dữ kiện đó (trải nghiệm, suy nghĩ,
toan tính, dự định, ước mơ …) thành một quan niệm, cách nhìn nhận, đánh giá con
người, cuộc đời, kể cả những thành kiến, định kiến về truyền thống, đạo đức, niềm
tin tôn giáo.
Mỗi khi đối diện với cảnh đời hiện tại, hồi tưởng về
quá khứ hay thả hồn về hướng tương lai, và nếu cảm xúc của ta chưa trào dâng
khiến ta ngây ngất đến mức lạc thần trí, thì vô thức sẽ thông qua lý trí, tác động
vào tâm hồn ta, định hướng để tâm trạng của ta phù hợp với quan niệm, cách nhìn
nhận của vô thức lúc ấy.
Có những bài thơ dù đọc kỹ cách mấy cũng không thể tìm
ra dấu vết của sự dối trá. Tứ thơ dễ bắt, cảm xúc dạt dào. Có điều chỉ không có
tín hiệu nổi điên đến mức lạc thần trí của thi sĩ, nghĩa là vẫn có bóng dáng của
lý trí.
Khi bài thơ còn sự hiện diện của lý trí, vô thức sẽ có
cơ hội can thiệp. Nó sẽ dùng lý trí làm cây cầu nối tác động vào tâm tình hoặc
thái độ của thi sĩ. Lời thơ sẽ có chỗ này, chỗ kia bị “điều chỉnh” (mà thi sĩ
hoàn toàn không biết) và sẽ không còn là tiếng nói chân thật của con tim.
Siêu
Thực Trong Sứ Mệnh Giải Trừ Lý Trí
Theo Thụy Khuê thì Siêu Thực đi từ triết học phân tâm
của Freud, coi vô thức như chủ thể của sáng tạo. Siêu Thực là hiện thân của mộng,
đề cao vai trò của mộng.
Freud chia hoạt động tâm thần làm ba khu vực:
Vùng vô thức tức là cái đó (le ça trong tiếng Pháp, Es
tiếng Đức) chứa đựng toàn bộ những nhu cầu bản năng bị dồn nén, cấm kỵ không được
phát lộ ra ngoài.
Vùng ý thức tức cái tôi (le moi, ego), hay ý thức xã hội,
cái tôi xã hội, chứa đụng những gì đã được thanh lọc bởi lý trí và đạo đức xã hội,
sẵn sàng trình làng.
Và cái siêu ngã (le sur moi) có trách nhiệm kiểm duyệt.
Theo Freud, cái vô thức mới là bộ mặt thật, là cái tôi
đích thực của con người. Nó chi phối mọi hoạt động. Còn cái tôi ý thức chỉ là bộ
mặt bề ngoài, giả dối và ngụy tạo.
Mơ, đối với Freud, là thực hiện những khát vọng bản
năng bị dồn nén. Khi ngủ, cơ quan kiểm duyệt không làm việc, do đó chỉ trong mơ
người ta mới thể hiện được những ham muốn bị dồn ép cấm kỵ lúc tỉnh.
Đề cao vai trò của Mộng trong thơ sẽ loại bỏ gông cùm
của lý trí, sự phân tích logic, nguyên tắc đạo đức, niềm tin tôn giáo. (7)
Đưa
Mộng Vào Thơ Thơ Sẽ Thành Lời Chân Thật?
Về lý thuyết thì đúng.
Những hình ảnh, cảnh tượng, sự việc xảy ra trong giấc
mơ thường vắng mặt lý trí. Tuy nhiên, khi tỉnh giấc thi sĩ có nhớ đúng và đủ những
gì đã xảy ra trong giấc mơ hay không lại là chuyện khác. Hơn nữa, chúng như câu
chuyện kể của người điên - “đầu Ngô mình Sở”, không theo một thứ tự nào; nếu
đưa vào thơ thì chức năng truyền thông của bài thơ thất bại.
Chính vì thế, dù có nhớ đúng và đủ những gì xảy ra
trong giấc mơ đi nữa thì khi đưa chúng vào thơ, thi sĩ – đang trong tình trạng
tỉnh táo - thường không cưỡng lại được sự thèm muốn “thêm bớt, cắt xén”, nghĩa
là “nêm nếm” một chút “tài thơ” riêng của mình để “điều chỉnh”, “hợp lý hóa”
câu chuyện trong mơ.
Rốt cuộc cũng chẳng khác gì những người làm thơ “phi
siêu thực”.
Giải
Trừ Lý Trí Bằng Kỹ Thuật Thì Sao?
Mời độc giả đọc thử một đoạn trong bài Buồn Xưa của
Nguyễn Xuân Sanh.
Lẵng
xuân bờ giũ trái xuân sa
Đáy
đĩa mùa đi nhịp hải hà
Nhài
đàn rót nguyệt vú đôi thơm
Tỳ
bà sương cũ đựng rừng xa
Tác giả đã đặt cạnh nhau những chữ hoặc nhóm chữ “xà bần”,
chẳng có “dây mơ rễ má” gì với nhau nhằm mục đích cắt đứt sự liên tưởng, để lý
trí “giơ hai tay đầu hàng” rồi bỏ đi.
Nhưng để có được kết quả đó ông đã phải trả một giá rất
đắt - triệt tiêu chức năng truyền thông của bài thơ – làm mất sự giao cảm giữa
thi sĩ và độc giả.
Cho nên nếu bảo rằng loại bỏ lý trí để được nghe, được
đọc tâm tình chân thật phát xuất từ “cái tôi đích thực” của thi sĩ thì theo
tôi, những nhà thơ siêu thực đã không làm được điều đó.
http://bvtt-tphcm.org.vn/vo-thuc-va-suc-manh-cua-no/
Hai
Cách Giải Trừ Lý Trí “Phi Siêu Thực”
1/ Thơ Thiền
Thi sĩ tâm đã đối cảnh nhưng không “dấy động”, hoặc đã
hoàn toàn buông bỏ chuyện tranh cạnh hơn thua của cuộc đời trần tục, lý trí
không có chỗ bám víu. Trường hợp này ta có thơ thiền. Bài thơ là “chứng đạo ca”
của một người đã ngộ, đã “thấy” được lý đạo. (Từ chỗ thấy Lý đến đưa Lý vào Sự
để Lý Sự Dung Thông và rồi Sự Sự Vô Ngại còn một khoảng cách xa lắm)
Thí dụ 1
THƠ
TRÊN CÁT
Viết
bài thơ trên cát
Con
sóng vỗ xóa đi
Vô
tình đâu nhớ được
Mình
viết bài thơ gì
(Viên Minh, nhận trực tiếp
từ tác giả)
Bài thơ mới viết xong trên cát, con sóng tràn lên xóa
mất mà thi sĩ vẫn không một chút bận tâm, đến mức chẳng còn nhớ mình đã làm thơ
về cái gì. Sao lại thế được nhỉ? Người làm thơ bình thường như tôi (PĐN) sẽ cố
nhớ lại vì nó là tài sản tinh thần của mình. Nếu quả thật đã quên thì chắc là sẽ
ngẩn ngơ nuối tiếc.
Thái độ không bận tâm của tác giả đã khiến lý trí phải
“đội nón ra đi”, vô thức không có chỗ bám víu để giở trò can thiệp, “điều chỉnh”.
Thiền sư Viên Minh đã biểu lộ một khả năng buông bỏ rất đáng ngưỡng mộ. Ở đây
không chỉ “thấy Lý” mà đã “Lý Sự dung thông”. Việc “thấy lý” của ông đã dẫn đến
hành động (sự) – thái độ ung dung, bình thản khi nhận ra mình đã quên bài thơ.
Thí dụ 2
HÃY
NHƯ MÂY TRẮNG
Mây
trắng lang thang khắp đỉnh trời
Tùy
duyên tan hợp dạo nơi nơi
Mây
không hò hẹn không vương vấn
Thế
giới ba ngàn mặc sức chơi
(Linh Như, nhận trực tiếp
từ tác giả)
Tâm hồn của thi sĩ như mây trắng lang thang khắp trời,
lúc tan, lúc hợp tùy duyên. Không hò hẹn, không vương vấn, không trói buộc. Lý
trí không có chỗ tá túc, không có lý do để xuất hiện, đành phải “đi chỗ khác
chơi”.
Trong 2 bài thơ thiền tâm hồn thi sĩ vắng lặng, không
tư ý, tư dục; cái tôi nhỏ bé đã hòa nhập với vũ trụ vô biên nên sự vật, cảnh đời
trước mắt họ, không qua lăng kính của vô thức, hiện ra như thị, như thực. Tâm hồn
họ không chỉ gần sự thật mà chính là sự thật.
2/ Thơ Thế Tục
Trái ngược với thơ thiền, trong thơ thế tục thi sĩ đắm
say mùi đời đến độ điên cuồng, máu sôi lên vì yêu thương, căm hận... Làm thơ
trong tâm cảnh này, nếu có thể thơ thích hợp, dòng chảy của tứ thơ thông
thoáng, cảm xúc dâng lên như nước vỡ bờ, dễ tạo cao trào. Lúc ấy lí trí sợ hãi
trốn biệt, thơ là tiếng lòng chân thật của thi sĩ. Bài thơ xứng đáng bước vào Bến
Bờ Thi Ca.
Thí dụ: Say Đi Em của Vũ Hoàng Chương
Vũ Hoàng Chương trong cơn say – say rượu, say nhịp điệu
nhạc trên sàn nhảy – đến lạc thần trí đã bộc lộ một “thành sầu” trong tâm hồn
mình.
Đó là nỗi nhục của một sĩ phu bất lực trước cảnh quê
hương, dân tộc đang bị ngoại bang dày xéo. Không những thế, chính mình lại sập
bẫy của quân xâm lược, sa vào cảnh nghiện ngập - nghiện rượu, nghiện vũ trường,
và đặc biệt là nghiện thuốc phiện – cái nghiện mà nếu vướng vào sẽ bị người đời
coi rẻ, khinh khi. Nỗi nhục ấy, “thành sầu” ấy, đối với một người có thi tài và
tâm hồn như Vũ Hoàng Chương là quá to lớn – “đất trời nghiêng ngửa” cũng không
thể lung lay, sụp đổ.
Trong số những bài thơ xứng đáng được bước vào Bến Bờ
Thi Ca thì theo tôi, Say Đi Em của Vũ Hoàng Chương nổi trội nhất. Cơn điên dài,
cảm xúc mạnh, hồn thơ lai láng, và lời thơ rất thật.
Độc giả có thể đọc cả bài thơ và lời bình qua link sau
đây:
https://phamnhibinhtho.blogspot.com/2019/03/
Sự
Khác Biệt
Những thiền sư
đạt đạo, sau khi cao hứng viết bài thơ thiền - sự vật, cảnh đời xuất hiện như
thị như thực trong câu chữ - lại ung dung trở về trạng thái tâm buông bỏ, thanh
tịnh.
Ngược lại, trong bài thơ thế tục (Say Đi Em của Vũ
Hoàng Chương) tâm hồn thi sĩ còn chứa đầy những uất ức, thèm khát, bí mật phải
che giấu nhưng nhờ cơn điên làm lý trí hoảng sợ trốn biệt nên “thành sầu”
nguyên bản (thật, chưa qua điều chỉnh, thay đổi của vô thức) mới “bật ra”.
Nhưng trạng thái nổi điên ấy chỉ đến bất chợt, có tính cách tạm thời. Ngay sau
giây phút lạc thần trí đó ông sẽ lại “hoàn hồn” để trở về một Vũ Hoàng Chương
“cũ”, có hàng trăm, hàng ngàn uẩn khúc khác chất chứa trong lòng không thể nói
ra.
Theo tôi, đây là hai cách mời lý trí “đi chỗ khác
chơi” hiệu quả mà vẫn có thể tâm tình với độc giả và giữ được nét đẹp trong
sáng của thi ca.
Lấy
Chữ Dâm Để Xem Ai Thật Hơn Ai?
Với người Việt chữ dâm bị cho là không thanh tao nên
thường được tránh né trong thơ. Trong mỗi người đều có “con ma dâm” nhưng hễ đề
cập đến nó không khéo một tí là ai cũng dẫy nẩy như đỉa phải vôi. Vì thế, bàn đến
chữ dâm trong thơ, ít ai dám bộc lộ thật lòng mình.
Dưới đây là mấy bài thơ có nói đến chữ dâm.
PHƠI
NẮNG TRÊN BÃI BIỂN
Biển
vắng nàng nằm phơi nắng
Chỗ
không nên phơi, cũng phơi
Tôi
tình cờ đi qua đấy
Nhìn
thấy nóng ran cả người
(Phạm Đức Nhì)
Bài thơ liếc qua tưởng chẳng có chỗ nào xạo, mà tác giả
có xạo cũng chẳng được cái giải gì. Nhưng đọc kỹ sẽ thấy chỗ có thể xạo nằm ở
câu thơ sinh tình:
“Nhìn
thấy nóng ran cả người”
Thân thể của người phụ nữ đang xuân, nửa kín, nửa hở
trong bộ bikini thiếu vải đã khơi dậy lửa dục trong lòng người đàn ông xa lạ. Lửa
dục ở đây chỉ ở phương diện xác thịt, không dính dáng gì đến chữ tình.
Có điều tùy đặc điểm về thể trạng, sinh lý của mỗi người
chữ dâm sẽ mạnh yếu khác nhau. Nhìn người phụ nữ nằm phơi nắng trên bãi biển có
người “lão Trư Bát Giới” vẫn ngủ yên, có người lão ta cựa quậy nhẹ nhàng. Nhưng
cũng có người “vừa đối diện với cảnh sắc” là lão đã bật dậy phùng mang trợn mắt.
Thi sĩ ở vào trường hợp nào độc giả làm sao biết được.
Trong bài thơ tôi đã chọn “nóng ran cả người” để chứng
tỏ mình vẫn “còn sức sống” nhưng không đến mức dâm đãng quá đáng. Xạo ở đây chỉ
mình thi sĩ biết, có thể nói là vô hại, không đáng trách, nhưng cũng vẫn là
“không thật”
Cũng nên nói thêm,
Phơi Nắng Trên Bãi Biển viết theo lối Kiếm Tông, chiêu thức không bí hiểm,
lại ngắn, “kênh” không đủ dài để tứ thơ và cảm xúc chảy đến mức có “sóng sau dồn
sóng trước”, đủ sức mạnh tạo cao trào cho thi sĩ lạc thần trí bật ra những lời
chân thật. Vì thế, tứ thơ nói đến chữ dâm nhưng chỉ ở mức “nóng ran cả người”.
Tôi đưa bài thơ – tương đối non tay - của mình vào lót
đường để độc giả có trớn đi tới những bài thơ “nặng ký” hơn.
TAN
VỠ
Mở
ngăn kéo rồi anh bỏ ngỏ
Bút
viết xong không đậy nắp bao giờ
Ôi
anh yêu, lơ đãng đến là
Con
nai rừng của em...
Tất
cả rồi dễ qua đi, qua đi
Chúng
mình sẽ thành vợ thành chồng
Nếu
không có một lần...
Một
lần như đêm nay
Sau
phút giây
Êm
đềm trên ghế đá
Anh
không cài lại khuy áo ngực cho em
(Dư Thị Hoàn, tập thơ Lối Nhỏ)
Tình của hai người đã chín mùi, sắp sửa thành vợ thành
chồng. Nàng đã mở mấy cổng rào đón chàng vào thăm khu đồi hai quả của mình.
Chàng và nàng đã đê mê “sau phút giây êm đềm trên ghế đá”. Thế rồi chỉ vì “Anh
không cài lại khuy áo ngực cho em” mà nàng, không một lời cảnh báo, cắt đứt mối
tình, “mời chàng đi chỗ khác chơi”. Và cuộc tình tan vỡ.
Điểm chính của tứ thơ là câu “Anh không cài lại khuy
áo ngực cho em”. Đó là lý do để tình hai người tan vỡ. Chữ dâm chỉ là sản phẩm
phụ, được khéo léo sắp xếp để xuất hiện cùng một lúc với câu thơ mang cả sức nặng
của bài thơ.
Trai gái yêu thích nhau, dẫn nhau vào rạp “xi-nê” vừa
xem phim vừa “sờ tí” cũng là chuyện thường tình. Cái bạo của Dư Thị Hoàn là dám
cùng người yêu làm chuyện đó ngay trên ghế đá, chỗ có thể có “ông đi qua, bà đi
lại”. Còn bạo hơn nữa là chị dám bóng gió đưa vào thơ “cảnh mở màn” của đoạn
phim sex đó. So với bài Phơi Nắng Trên Bãi Biển ở trên, chữ dâm của Tan Vỡ, tuy
không cụ thể, nhưng nhờ sức gợi mạnh mẽ nên đi xa hơn, hấp dẫn hơn.
CHẠM
Vùi
vào tóc anh
Chạm
rong
rêu đại dương, ẩm mục rừng già
ngai
ngái phù sa, cánh đồng rơm rạ
Chạm
sợi đa đoan, nhuộm màu dâu bể
Chạm
sợi muộn phiền, ẩn mình lặng lẽ
Vùi
vào môi anh
Chạm
thềm mê man, chạm bờ mộng mị
Chạm
lời chối bỏ, trong lời thầm thì
Dâng
bời bời nhớ
Chạm
bời bời quên
Vùi
vào tay anh
Chạm
đường vân quen, mịt mùng lạc lối
Chạm
vết thương sâu, dấu chai cằn cỗi
Hôn
ngón yêu thương
Chạm
ngón lạnh lùng
Vùi
sâu vào anh
Vùi
vào giấc mơ
Vào
đêm
Không
anh.
(Đậu Thị Thương)
Tác giả kể lại cái cảm giác sung sướng, hạnh phúc của
mình trong một đêm được đắm đuối mê say dâng trọn cả linh hồn lẫn thể xác cho
người yêu, nhưng bừng tỉnh mới biết đó chỉ là giấc mơ.
Với tôi, cách cấu tứ cuả Chạm có thể coi như là biến
thể của phép ẩn dụ. Tác giả diễn tả sự việc cứ như đang thực sự xảy ra với tất
cả háo hức, cuồng nhiệt của mình. Chỉ đến giây phút cuối mới bất ngờ hé lộ: “Đấy
chỉ là tưởng tượng, chỉ là mơ.” Người đọc cảm được ý của tác giả trong sự ngạc
nhiên thích thú. (Chạm Và Mấy Lời Bình, Phạm Đức Nhì,
phamnhibinhtho.blogsot.com)
Chỉ với tài sử dụng hai chữ “vùi” và “chạm” một cách
điêu luyện Đậu Thị Thương đã đẩy chữ dâm đi rất xa. Người đọc như đang xem một
cuốn phim sex bằng óc tưởng tượng của mình qua một thứ ngôn ngữ gợi cảm, gợi dục
nhưng rất đẹp, rất thanh của thơ ca. Dâm ở đây không những không tục mà rất Người,
khoác cho bài thơ chiếc áo nhân bản rất đáng kính trọng.
Có điều chị đã khéo léo trong cấu tứ để bài thơ chỉ “vừa
đủ đẹp”. Chính sự khéo léo ấy khiến chữ dâm phải ngừng trước lớp rào cản cuối
cùng, không được phép nhảy qua để đi tới bến. Chữ “thật” ở đây vẫn chưa được trọn
vẹn.
Chữ dâm của Chạm chi tiết, cụ thể, sống động, hấp dẫn
và thật hơn chữ dâm của hai bài thơ trên.
TRÁI
TIM RAO BÁN
Có
thể
rồi
sẽ đến một ngày
em
phải xót xa
xót
xa
đem
trái tim mình
rao
bán
Một
ngày
mù
khơi hạnh phúc
biền
biệt tình yêu
còn
lại trái tim biết đớn đau – niềm kiêu hãnh cuối cùng
rồi
em sẽ phũ phàng
rao
bán
Một
ngày
mỏi
mòn trong ảo vọng
em
sẽ đem bán đi trái tim mình
không
cần chọn lựa người mua
không
cần sòng phẳng!
chỉ
để mong nhận lại một chút tình
một
chút tình
dẫu
là thương hại!
một
chút tình
cho
bớt chông chênh…
(Đinh Thị Thu Vân)
Mấy điểm đặc biệt trong Trái Tim Rao Bán:
1/
Chữ dâm núp bóng chữ tình:
Bằng mấy nhóm chữ “mù khơi hạnh phúc”, “biền biệt tình
yêu”, “mỏi mòn trong ảo vọng” và đoạn thơ:
còn
lại trái tim biết đớn đau – niềm kiêu hãnh cuối cùng
rồi
em sẽ phũ phàng
rao
bán
ĐTTV muốn bộc lộ
tâm trạng khao khát tình yêu đến điên cuồng.
Nhưng ở đoạn cuối:
không
cần chọn lựa người mua
không
cần sòng phẳng!
chỉ
để mong nhận lại một chút tình
một
chút tình
dẫu
là thương hại!
một
chút tình
cho
bớt chông chênh…
chữ tình tuy được lập đi lập lại nhưng rất mờ nhạt.
Còn chữ dâm, tuy không được nhắc tới, đã là nhân tố chính lèo lái cảm xúc của
tác giả.
Chị nói “không cần sòng phẳng” để chứng tỏ mình không
phải loại gái làng chơi, cho thuê thân xác kiếm tiền, “không cần chọn lựa người
mua” – nghĩa là ai cũng được, già trẻ lớn bé, đui què sứt mẻ cũng OK - để cho
thấy chữ tình lúc ấy, với chị, chẳng đáng giá một xu, còn:
“chỉ
để mong nhận lại một chút tình
một
chút tình
dẫu
là thương hại!
một
chút tình
cho
bớt chông chênh…”
thì rõ ràng chữ DÂM thật lớn, khoác áo chữ tình, đã độc
chiếm thể xác và tâm hồn chị.
2/
Nói về tương lai nhưng thật ra là hiện tại
Trong đoạn đầu bài thơ:
Có
thể
rồi
sẽ đến một ngày
em
phải xót xa
xót
xa
đem
trái tim mình
rao
bán
nhóm chữ “rồi sẽ đến một ngày” rõ ràng là nói đến
tương lai. Thêm hai chữ “có thể” cái tương lai ấy còn chưa có gì chắc chắn.
Nhưng giọng điệu thì đã hàm chứa cái gì đó gấp rút lắm.
Đến đoạn cuối thì tình hình đã đến mức khẩn cấp, “bom
sắp nổ”, không thể chờ đợi thêm một phút giây nào nữa. Tình thì còn có thể nấn
ná chờ đợi, chứ “con ma dâm” khi đã nổi cơn điên thì “trời long đất lở”. Mà như
đã nói ở trên, tình ở đây chỉ là con số không to tướng.
3/
Bài thơ chỉ bộc lộ, không kể
Trái
Tim Rao Bán không dài lắm, nhưng được viết theo lối
Khí Tông, nặng về cảm xúc. Tác giả không kể lể dài dòng mà ngay từ câu đầu đã
thẳng thắn bộc lộ tâm trạng của mình. Có thể nói Đinh Thị Thu Vân đã tận dụng tất
cả 95 chữ, từ chữ đầu đến chữ cuối, không bỏ phí chữ nào để trải lòng mình trên
trang giấy. Bài thơ, vì thế, rất đậm chữ tình, cảm xúc rất mạnh.
Nhân bàn về nét độc đáo của Trái Tim Rao Bán trong một buổi trà dư tửu hậu, thằng bạn yêu văn
thơ nhưng có tật nói thô tục của tôi đã phát biểu:
“Con nhỏ này chắc là ‘thèm khát’ đến cực điểm nên mới
nổi điên dám viết những câu thơ bất cần thiên hạ như thế. Nhưng tao lại khoái
cái ‘chất điên’ của nó.”
(Tôi đã dùng “thèm khát” thay thế 2 chữ rất tục tĩu của
hắn để phù hợp với khung cảnh của bài viết này. Mong bạn đọc thông cảm.)
Tôi hoàn toàn đồng ý với hắn. Nhờ cái “chất điên” ấy
tác giả không còn nỗi sợ “quan trên ngó xuống người ta trông vào”, đã tháo cũi
xổ lồng để “con ma dâm” tự do chạy tới bến. Chị đã tự chà đạp lên nhân cách của
của mình, nhân cách của “cái tôi văn hóa”, nhân cách mà ai cũng muốn o bế, tô vẽ
để nhận được thiện cảm, ngưỡng mộ của người đời. Mà rất lạ, làm như vậy tự
nhiên tâm hồn chị lại toát ra một Nhân Cách khác, Nhân Cách của “cái tôi đích
thực”, Nhân Cách có chữ Nhân được viết hoa một cách trang trọng. Vì sao?
Nhờ bị cuốn vào dòng chảy của thơ, cảm xúc dâng tràn,
lý trí trốn biệt, vô thức mất “trạm trung chuyển” để liên lạc, không còn khả
năng tác động vào tâm hồn nên chị đã tự do nói Thật cái “muốn” của mình, điều
mà nhiều người khác cũng “muốn” nhưng không chộp được cái giây phút nổi điên
như chị, không có tài thơ như chị để đẩy lý trí đi chỗ khác chơi nên không dám
nói.
Đinh Thị Thu Vân, qua bài thơ Trái Tim Rao Bán, đã cho
độc giả chúng ta cơ hội để trò chuyện với chị bằng Tiếng Người Chân Thật.
Cánh
Đồng - Một Bài Thơ Lạ
CÁNH
ĐỒNG
Sau
ba năm chung thủy
Với
người chồng đi xa
Chị
đã thất tiết một cách lạ kỳ
Với
người đàn ông xấu xí
Già
hơn chị rất nhiều
Trong
một buổi chiều bão tố
Khi
chúng tôi đến đó
Người
đàn ông đã đi rồi
Chỉ
còn lại trên đồng lúa
Vết
xước của dĩa bay mà thôi
(Nguyễn Đức Tùng)
So với 4 bài thơ nói đến chữ “dâm” ở trên, Cánh Đồng của
Nguyễn Đức Tùng có mấy điểm khác biệt:
1/
Người phụ nữ đã “thất tiết” với người đàn ông già, xấu
xí và … ở một nơi nào đó ngoài quả đất của chúng ta. Thông điệp của tác giả là:
Khi cơn dâm - một nhu cầu thiết yếu của con người - nổi lên thì việc làm tình với
người ở ngoài hành tinh cũng có thể xảy ra.
Như thế, nói về đối tượng của chữ dâm thì:
a/ Dư Thị
Hoàn tận hưởng “phút giây êm đềm trên ghế đá” với người yêu.
b/ Chạm: Rõ
ràng khi mường tượng những câu thơ đầu tiên về cảnh ân ái cô giáo Đậu Thị
Thương đã nghĩ đến (và chọn) người yêu của mình. Lý do: Khác với người phụ nữ
trong Cánh Đồng chồng chết đã 3 năm, khác với Đinh Thị Thu Vân đang “biền biệt
tình yêu”, “mù khơi hạnh phúc”, chị có người yêu nhưng có lẽ do hoàn cảnh nào
đó nên tạm thời xa cách.
Khi chữ dâm ập đến, lựa chọn người yêu của mình để đưa
vào “cuộc ân ái trong mơ” là hoàn toàn hợp tình, hợp lý.
c/ Phơi Nắng
Trên Bãi Biển: Phạm Đức Nhì hứng tình (“nóng ran cả người”) khi nhìn thấy người
phụ nữ mặc đồ tắm nằm trên bãi biển - tuy xa lạ nhưng đẹp, “sexy”, và là người
trên trái đất.
d/ Trái Tim
Rao Bán: Đinh Thị Thu Vân không kén chọn, ai cũng được, miễn là người trên trái
đất.
e/ Người phụ
nữ trong Cánh Đồng làm tình với vị khách đến thăm bằng dĩa bay.
Nguyễn Đức Tùng đã đẩy chữ dâm đi thêm một đoạn dài nữa,
vượt bầu khí quyển đến một tinh cầu nào đó xa diệu vợi.
Xét về đối tượng của chữ dâm, cái nhìn của Nguyễn Đức
Tùng phóng khoáng hơn, bạo hơn tác giả của 4 bài thơ trên.
2/
Chuyện người phụ nữ “thất tiết” - làm tình - với người
ngoài hành tinh chỉ là bịa đặt, một kỹ xảo “xạo nghệ thuật” nhằm chuyển tải thông
điệp về chữ dâm
3/
Bài thơ chỉ toàn Kể, không có Bộc Lộ Tâm Trạng. Nặng
chất trí tuệ, gần như toàn lý trí, rất ít cảm xúc.
Tác giả “nghe đồn” về chuyện này, đến xem cho rõ thực
hư thì:
Người
đàn ông đã đi rồi
Chỉ
còn lại trên đồng lúa
Vết
xước của dĩa bay mà thôi
Ông quan sát sự việc rồi dùng khả năng lý luận của
mình suy ra: Người ngoài hành tinh có đến thật; chuyện “thất tiết” của người phụ
nữ “chắc là có”.
Tóm lại, Nguyễn Đức Tùng đã thành công trong việc chuyển
đến độc giả một thông điệp mới lạ, có tính nhân bản, nhưng ông chỉ là kẻ bàng
quan nên tuy chữ dâm trong bài thơ Cánh Đồng được bóng gió nói đến một cách tài
tình nhưng cảm xúc và ấn tượng thì gần như không có. Riêng chữ “thật” thì bé tí
ti.
Trong 5 bài thơ về chữ dâm, xét về cường độ cảm xúc và
mức độ thành thật, Trái Tim Rao Bán của Đinh Thị Thu Vân thành công nhất. (8)
Con ma dâm lồng lộn đã khiến chị vật vã, ngả nghiêng đế mức gần như van xin:
không
cần chọn lựa người mua
không
cần sòng phẳng!
chỉ
để mong nhận lại một chút tình
một
chút tình
dẫu
là thương hại!
một
chút tình
cho
bớt chông chênh…
Chị đã bộc lộ tâm trạng của mình một cách thành thật,
thật đến mức gây bàng hoàng sửng sốt cho cả những người có cái nhìn phóng
khoáng về những gì xảy ra “sau bức màn the”. Theo tôi, bài thơ Trái Tim Rao Bán
của Đinh Thị Thu Vân xứng đáng được bước vào Bến Bờ Thi Ca.
Thơ
Càng Hay Càng Gần Sự Thật
Những năm ở trung học nhà tôi nằm trong khu lao động.
Đàn ông, sau thời gian làm lụng cực khổ suốt ngày, bữa cơm chiều thường tìm vui
trong ly rượu. Mà khi “rượu vào” thì “lời ra”. Có ông lúc quá chén đã “buột miệng”
nói ra chuyện dan díu với người đàn bà khác. Dĩ nhiên, vợ con nghe được, tình vợ
chồng, cha con lạnh nhạt, hạnh phúc đội nón ra đi. Có trường hợp chỉ vì một câu
nói “buột miệng” mà gia đình gẫy đổ, chồng một nơi, vợ một nẻo, con cái học
hành lở dở, đánh mất tương lai.
Trong các phiên tòa hình sự ở Mỹ cả công tố viên lẫn
luật sư biện hộ đều dùng nhiều thủ thuật tâm lý đẩy bị cáo hoặc nhân chứng (của
cả 2 bên) vào thế tự ái, bực tức, tự “phun” ra những chi tiết lẽ ra phải che giấu
để thắng kiện. Trong trạng thái nổi điên ấy những chi tiết bị “phun” ra thường
được bồi thẩm đoàn tin và cho là sự thật. Họ sẽ dựa vào đó để phán xét có tội
hoặc vô tội.
Với thơ, tôi có đôi lúc cao hứng nổi điên, câu chữ
tuôn ra ào ạt, phải “chộp lại” bằng tốc ký. Lúc ấy lý trí trốn biệt, vô thức
không có cầu nối nên không thể xen vào để bí mật “so đo hơn thiệt”, phán xét
đúng sai, yêu cầu chỉnh sửa. Những đoạn thơ ấy, khi bình tâm đọc lại nghe rất
“đã” vì nhiều cảm xúc, và dĩ nhiên, rất thật.
Nếu trong thời gian sáng tác, có nhiều đoạn thi sĩ cao
hứng hoặc nổi điên thì bài thơ càng hay hơn nữa. Đặc biệt, nếu cơn điên kéo dài
cho đến lúc viết xong bài thơ - hoặc ít nhất cũng xong đoạn tứ thơ lên đến cao
trào - thì thi phẩm ấy không những cảm xúc sẽ dạt dào mà còn có nhiều cơ hội hồn
thơ lai láng.
Nhưng xin đừng quên trạng thái cao hứng đến mức nổi
điên của thi sĩ tuy là điều kiện rất cần nhưng chưa đủ để có hồn thơ. Bên cạnh
đó thi sĩ phải có kỹ thuật thơ điêu luyện. Đặc biệt phải biết chọn (hoặc tự tạo
ra) thể thơ có dòng chảy vừa nhất khí liền mạch vừa thông thoáng, dễ đưa đến
cao trào.
Nếu hồn thơ lai láng thì bài thơ sẽ đạt được mục đích
cao cả nhất của người làm thơ là nói được tiếng Người (viết hoa) Chân Thật. Và
sẽ đi vào Bến Bờ Thi Ca.
Kết
Luận
Thi sĩ mượn thơ để bộc lộ, bày tỏ tâm trạng, để độc giả
“nghe” được “tiếng lòng” của mình. Nhưng vì nhiều lý do, “tiếng lòng” của Ngài
thường gian dối. Nếu bài thơ bằng cách nào đó loại bỏ được lý trí - dẫn đến loại
bỏ được sự gian dối – có nghĩa là thi sĩ đã ban cho độc giả ân huệ được giao tiếp
với Ngài bằng Tiếng Người Chân Thật. Với một thế giới mà cái tôi văn hóa đã gần
như hoàn toàn che lấp cái tôi đích thực như hiện nay thì đó là điều vô cùng cần
thiết và quý giá. Và đó cũng là sứ mạng cao cả của thơ.
Nếu thi sĩ tâm có khả năng buông bỏ như các thiền sư đạt
đạo thì không nói làm gì. Thơ của Ngài không có chỗ cho lý trí bám víu, sẽ là
tâm tình chân thật.
Còn với những thi sĩ trần tục như tuyệt đại đa số những
người làm thơ, trong đó có tôi, thì như đã trình bày ở trên - đặc biệt là phần
bàn đến mức độ thành thật khi nói về chữ dâm - thơ càng nhiều cảm xúc (thứ cảm
xúc từ trạng thái tâm của thi sĩ) càng gần sự thật và giá trị nghệ thuật càng
cao.
Với những thể loại văn học khác thì tôi không dám bàn
tới, nhưng với thơ, tôi có thể xác quyết câu nói “Văn chương càng hay càng xa sự
thật” sai hoàn toàn.
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
phamnhibinhtho.blogspot.com
CHÚ
THÍCH:
1/ Báo Tiền Phong ngày 01/10/2019
https://www.tienphong.vn/van-hoa/du-thi-hoan-tung-co-tan-vo-gay-chan-dong-xuat-hien-sau-10-nam-di-tu-1469906.tpo
2/ Yêu Thơ Nên Phải Hết Lòng Với Thơ, Phạm Đức Nhì,
t-van.net
http://t-van.net/?p=8800
3/ Mối Tình Xuyên Lục Địa, Phạm Đức Nhì
https://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/06/moi-tinh-xuyen-luc-ia.html
4/ Giấc Mơ Anh Lái Đò hay Mối Tình Vô Vọng
https://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/06/giac-mo-anh-lai-o-hay-moi-tinh-vo-vong_1.html
5/ Triết gia người Pháp
Tác phẩm
tiêu biểu: L'Être et le Néant (Tồn Tại Và Hư Vô), La Nausée (Buồn Nôn)
6/ Triết gia người Pháp
Tác phẩm
tiêu biểu: L'Étranger (Kẻ Xa Lạ)
7/ Từ Lãng Mạn Đến Siêu Thực, Thụy Khuê
http://thuykhue.free.fr/stt/s/breton.html
8/ Kế đến là Chạm của Đậu Thị Thương, Tan Vỡ của Dư Thị
Hoàn, Phơi Nắng Trên Bãi Biển của Phạm Đức Nhì, và sau cùng là Cánh Đồng của
Nguyễn Đức Tùng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét