BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 27 tháng 2, 2020

CÁNH HOA ƯU ĐÀM TRONG RỪNG U MINH - Truyện ngắn của Khét




CÁNH HOA ƯU ĐÀM TRONG RỪNG U MINH

Trên bàn đá trong căn chòi, chạng vạng như lọt thỏm bên những dấu bàn cờ tướng. Hai người ngồi đối diện nhau một già một trẻ, tay trỗi cạnh hàm, mắt đăm đăm như cào cấu từng quân cờ.
Chốc chốc, người già lại đưa tay nâng ly rượu đánh khà một cái khi được nước cờ hay, cái xóm nhỏ ở rừng tràm U Minh thì phải biết, món hời nhất là muỗi. Cậu thanh niên trạc 30 tuổi, một tay nâng ly rượu nốc hơi cạn sạch, mặt vẫn chăm chú nhìn bàn cờ, tay kia kéo pháo:
- Chiếu tướng.
Không chút nghĩ ngợi, dường như lão già kia đã biết trước nước đi, nhẹ chìa ngón tay trỏ rà con sĩ đỡ nước chiếu. Đi quân cờ mà mặt bình thản như không, mắt ông nhắm nghiền nghe tiếng con bìm bịp dưới kinh kêu nước lớn.
- Được, đi chốt qua sông - Chàng trai vừa đưa con chốt sang hà bên kia vừa thì thào - Vẫn biết là hổng mong trở về.
- Về. Hừ, đã là chốt chỉ có hy sinh.
Lời nói rắn rỏi, khiêu khích ấy làm cho từng mô máu chảy nhanh hơn, chàng trai bực tức lắm nhưng vẫn với giọng nói của kẻ bụi đời, trầm ấm và nhã nhặn:
- Giống bà sư cô trong am bên kia sông phải hôn, đã lấy chồng thì hông đường quay về!
- Đàn bà là chốt, đàn ông là tướng, chốt chỉ phục vụ, hy sinh cho tướng là tròn nhiệm vụ.
- Nghe có lý quá he. Ông có khi nào thấy con tướng qua sông hôn? Nó qua rồi đó, cũng có về đâu.

Hai người vẫn đi những quân cờ trong vô thức, không thắng cũng không thua, nói những lời bâng quơ chẳng dính dáng gì cả.
Bên kia sông, vang lên tiếng gõ mõ từng lúc nhặt hơn, giọng đọc kinh cũng hòa vào chiều mà lãng đãng khắp một góc rừng U Minh, tiếng kinh nghe quen lắm, dân trong vùng đã nghe nó khoảng mười năm rồi.

***

Mười năm trước, trên nền cái am đó là một ngôi nhà bề thế, khai thác tràm và chuyển đi bán khắp lục tỉnh. Mỗi chuyến đi phải mất mươi ngày, có khi đi tới xứ Nẫu phải hơn tháng.
Người đàn ông trong căn nhà đó theo tràm lênh đênh khắp xứ.
- Tràm đợt này lại lên giá hở anh? - Giọng con gái lảnh lót dưới đôi mắt nhung huyền như lúc nào cũng ướt nước.
- Đúng ời em! Đợt này cây to và thẳng, dí lại miệt dưới anh vừa cháy rừng nên khan hiếm tràm lắm.
- Anh bán cao vậy em lấy đâu đủ tiền mà trả cho anh, chắc phải… mà hổng biết người ta có chịu lấy hông nữa - Giọng như bông đùa, lấp lửng đến độ chỉ người trong cuộc mới hiểu...

Xế chiều, chiếc ghe tam bản dong mái về tới xóm rừng U Minh. Mấy mẹ con trong nhà chạy ùa ra, vẫn nụ cười hiền của vợ chào đón anh, mấy đứa nhỏ thì reo hò: “Cha, cha đi Cà Mau có mua bánh về cho con hông cha?”. Bữa cơm cá rô kho tộ, mớ bông súng tím nấu canh chua làm ấm cả gian nhà. Nhưng người đàn ông trở nên gắt gỏng hơn, lầm lì và chán ngắt với cảnh quê eo sèo, tăm tối.
Các chuyến chở cây đi xa càng nhiều, thời gian ở nhà của người đàn ông càng ít hơn. Mấy đứa nhỏ nhớ cha, vợ nhớ chồng chỉ biết ngồi đếm tiếng muỗi vo ve, vàng vọt. Cứ chạng vạng, người phụ nữ dắt mấy đứa con ra ngồi ở sàn lãng trước nhà mắt ngó ngơ rặng dừa nước phía cuối con kinh, lục bình tím ngắt, dập duềnh, mấy bà già đằng xóm chèo xuồng đi chợ về muộn, ngang qua cất giọng hò ngặt nghẽo: “Hò ơ… có một loài hoa vừa trôi vừa nở, có một loài hoa vừa trôi vừa buồn…”, nghe đắng chát, quặn thắt, héo ruột héo gan.
- Nào cha về hở mẹ?
- Chắc về gần tới rồi con, nay 30 Tết mà.
- Cha hứa mua cho con ba bộ đồ mới lận á, mai con đi nội chơi, chúc Tết nội.
- Con nhớ nội hả?
- Dạ hông, con nhớ trái bần chấm nước mắm đường của nội không hà.
Mấy đứa nhỏ vô tư cười xòa, mắt Phượng thì ươn ướt, quay đi. Ừ, nay 30 Tết rồi mà, ảnh sẽ về thôi, đi quá ba tháng còn gì, ảnh nói đi Cần Thơ mà sao lâu vậy, hổng biết ảnh có bị gì hông nữa.

Mấy người trong xóm ngày nào cũng thấy cảnh mấy mẹ con ngồi với chiều mà chua chát. Ừa thì đi Cần Thơ, mà thằng cha đó đi dí con nhỏ ở Cà Mau á. Cái xóm này ai hổng biết, mà biết nói sao dí mẹ con cô Phượng giờ, chỉ biết nhìn nhau rồi lắc đầu cho qua.
Phượng biết chớ sao hông. Biết chớ, biết từ cái lần Phượng ngồi ăn cơm dí chồng bên mẻ cá kho và nồi canh chua bông súng lận. Mắt chồng trốn mắt Phượng, tối nào cũng nhậu say khướt mới về nhà, giống như uống để quên thứ gì đó buồn lắm. Phượng cũng biết lần ảnh đi vào buổi sáng ba tháng trước, con gà sau nhà gáy te te. Đưa chồng ra sàn lãng xuống ghe mà bông tràm rụng trắng cả sân nhà, Phượng hông rõ lắm nhưng hơi gió thổi sáng hôm ấy như nói cho Phượng biết đây là lần cuối tiễn chồng đi.
Phượng yêu màu tím, yêu cái màu của lục bình làm đẫm cả dòng kinh, chắc nó trôi nổi giống Phượng. Và cũng là màu tím nhưng Phượng lại ghét, ghét cay ghét đắng, ghét đến thương, đến hận cái màu tím rịm của bông súng dập duềnh cạnh sàn lãng trước nhà, nơi mà Phượng thường trốn mấy đứa con ra ngồi ngó ngẩn ngó ngơ rồi khóc, chắc cũng tại nó giống Phượng, cũng tím rịm cái đợi cái chờ, tím đến hanh hao.

***

Hơn năm sau, ngôi nhà đó đã trở thành nhà hoang, mạng nhện phủ đầy, vài con chim chán làm tổ trên mấy cái chàng hảng của cành tràm cũng bay vào, mỏ gặm sợi rơm đem treo lơ lửng giữa cây xiêng nhà làm tổ. Đất U Minh hổng có mùa hè, mà có đi nữa thì hè cũng đi hông nổi qua những lớp bông tràm dày đặc của khu rừng. Ở đây người ta chỉ biết hè đã tới khi tụi trẻ con trong xóm thôi mặc những bộ đồ lấm chấm vệt sình đến trường và tiếng tu hú da diết vọng lại làm trời sâu thẳm hơn. Mà hè ở cái xứ này ngộ lắm, luôn tới cùng những đám mưa đầu mùa tầm tã, ủ dột đến buốt đau, đám nòng nọc chạy đua trong những vũng nước to lớn của bước chân người để lại. Dưới làn mưa nhạt nhòa, một vị sư cô đi trước, những người thợ theo sau, đứng trước ngôi nhà hoang, mở tung cánh cửa, lũ dơi giật mình bay nhập nhoạng ra khỏi căn nhà dầm mưa về đậu trên những tán cây.
Hai mươi cơn mưa trôi qua, trên nền đất ấy dấu vết của ngôi nhà hoang hoàn toàn biến mất, một cái am được dựng lên, ngày nào cũng nghe thấy tiếng tụng kinh vang vọng trong xóm nhỏ ở xứ sở này, nghe riết rồi người dân trong vùng cũng quen nhưng hông ai thắc mắc gì về vị sư cô đó, vì nhìn quen lung lắm, những người trong xóm nhìn nhau rồi tự hiểu, kẻ lắc đầu, người lại gật đầu lia lịa.

***

Tiếng mõ khua đều bay ra khỏi am và kéo chiều về nhanh hơn, bên kia sông, bàn cờ tướng, vẫn hai người ngồi tiu nghỉu chưa phân thắng bại.
- Tối rồi, ông đánh nhanh đi, thế này bí rồi nghĩ ngợi gì nữa, gỡ không nổi đâu.
- Ừa, thua rồi, thua hoàn toàn, thua vì con chốt… qua sông - Nói rồi ông già có vẻ tần ngần nhìn qua am.
Chàng trai dửng dưng như cố kiềm thanh âm trong cổ họng bị đứt quãng không cho bật ra thành tiếng, nhưng mắt đẫm màu chiều:
- Ông không thua vì con chốt, mà thua vì con tướng, con tướng… qua sông. Thôi, ông đi đi, bàn cờ đến đây là kết thúc được rồi, hôm nay là 30 Tết, tui còn phải về đón tết với mẹ tui nữa. Hy vọng ông đừng đặt chưn qua bên kia sông, hẹn ông ngày này năm sau ta lại đánh cờ.
Mắt lão già vẫn tần ngần với cái am, chợt sóng mắt lòa theo từng tiếng kệ, trầm ngâm một lát, hai người ngồi đối diện nhau, nói chuyện với nhau nhưng không nhìn nhau. Tối ở đây xuống nhanh lắm, rừng trở nên thâm u, thâm u như lòng người, đúng như cái nghĩa U Minh, sáng sáng, tối tối, khỏa lấp, heo hút và sâu hoắm buồn. Hai người đàn ông xốc chiếc ba-lô lên vai đi về hai hướng. Trời tối quá! Không thấy rõ bóng người, chỉ nghe tiếng bước chân hòa vào nhập nhằng với tiếng mõ gieo neo, bỏng rát.

Lão già bước xuống chiếc ghe tam bản đậu ở đằng xa, phía mũi ngọn đèn treo lơ lửng như ma trơi nhịp từng hồi theo làn nước bì bõm dưới kinh. Chàng trai gọi đò qua sông mà lòng nao nao buồn, cái buồn của 30 Tết năm ấy chợt ùa về, lác đác vài bông tràm rụng xuống vầng trăng dưới nước làm chao đảo cả một vùng ký ức tưởng chừng như chẳng còn mảy may nhớ. Chàng bước vào am:
- Mẹ ơi, con đã về!
Sư cô ngừng gõ mõ, quay ra, vẫn nụ cười hiền lành. Bất giác, cọng bông súng trước nhà nở hoa tím rịm, ngát hương như chưa từng được nở.
                                                                        Truyện ngắn của Khét

Nguồn:
https://giacngo.vn/vanhocnghethuat/2020/02/16/17D099/

Không có nhận xét nào: