BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2025

TỪ HÁN VIỆT, ÂM HÁN VIỆT - Tri thư đạt lễ 知書達禮

 
                  

Trong tiến trình tiếp xúc văn hoá, nhiều yếu tố ngôn ngữ, đặc biệt là từ vựng tiếng Hán đã du nhập vào tiếng Việt. Những yếu tố vay mượn này được người Việt tiếp nhận, biến đổi và đồng hóa, qua thời gian dần hình thành nên hệ thống lớp từ có số lượng lớn là từ Hán Việt, được sử dụng rộng rãi và ổn định trong tiếng Việt hiện nay.
 
Có thể nói từ Hán Việt và từ vựng tiếng Hán hiện đại vẫn duy trì mối quan hệ họ hàng gần gũi, do cùng bắt nguồn từ một gốc chung trong lịch sử tiếng Hán. Song do sự khác biệt về lịch sử, văn hóa và lối tư duy của hai dân tộc qua thời gian nên giữa tiếng Hán, âm Hán Việt và từ Hán Việt tồn tại những khác biệt quan trọng. Cần phân biệt chúng như sau:

1. Chữ Hán

Chữ Hán (còn gọi là nhữ Nho), vốn là một nền văn tự do người Hán sáng tạo cách đây khoảng trên 2.000 năm (thuộc hệ thống văn tự của người Hán, nguồn gốc có thể truy về hơn 3.000 năm), khi người Hán đang còn đóng khung địa bàn cư trú của mình trong vùng đất thuộc lưu vực sông Hoàng Hà và sông Vị.

Lúc đầu nó chỉ dùng để phục vụ riêng cho người Hán và các tầng lớp trên trong các khu vực đã bị Hán hoá sớm: Ghi chép những chuyện liên quan đến bói toán (giáp cốt văn tự), ghi chép lời nói của những nhân vật nổi tiếng thời thượng cổ (Kinh Thư), ghi chép thơ ca dân gian (Kinh Thi), ghi chép các huyền thoại mà người Hán nghe được trong vùng (huyền thoại về Tam hoàng, Ngũ đế, Nữ Oa v.v.). Tiến lên một bước nữa, nó dùng làm công cụ để bàn bạc về triết học, thảo luận về chính trị (Luận ngữ, Mạnh tử, Trang tử, Tả truyện v.v...) cũng như để sáng tác văn học (Sở từ).  (Xem Nguyễn Tài Cẩn, Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2004, tr.16).
 
Trong tiến trình phát triển của tiếng Hán, người ta thường phân biệt Hán cổ và Hán hiện đại, hay nói cách khác là văn Văn ngôn (文言文) và văn Bạch thoại (白話文). Đây là hai thể văn tồn tại song song trong lịch sử ngôn ngữ Trung Hoa, phản ánh sự tách biệt giữa ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói.
 
Văn ngôn (còn gọi là Cổ văn, trong truyền thống Việt Nam quen gọi là chữ Nho) là ngôn ngữ viết cổ, được dùng trong các tác phẩm kinh điển, sử sách và văn chương của giới trí thức phong kiến. Nó có cấu trúc cô đọng, cú pháp chặt chẽ, dùng nhiều điển cố và ít dấu vết khẩu ngữ. Văn ngôn tồn tại chủ yếu trong môi trường học thuật và hành chính, gần như tách biệt khỏi tiếng nói thường ngày. 
Chính vì vậy, ngay cả người Trung Quốc hiện đại cũng phải học “Cổ văn” như một ngoại ngữ để đọc hiểu các tác phẩm kinh điển như Luận Ngữ, Mạnh Tử, Trang Tử, Thi Kinh, Đường thi tam bách thủ, v.v.. Ngày nay, Văn ngôn đã trở thành một “tử ngữ” chỉ dùng cho việc nghiên cứu văn hóa lịch sử của các triều đại, chứ không còn là công cụ giao tiếp thông thường.
 
Ngược lại, văn Bạch thoại là hình thức ngôn ngữ dựa trên tiếng nói đời thường, phản ánh cách giao tiếp tự nhiên của người Trung Quốc trong từng thời kỳ. Từ sau phong trào Ngũ Tứ (1919), văn Bạch thoại tăng dần và thay thế văn Văn ngôn, trở thành thứ tiếng được dùng trong giáo dục, truyền thông và đời sống hàng ngày ở Trung Quốc, Đài Loan, Singapore v.v.. Ta quen gọi là Hán ngữ hiện đại.
 
Tóm lại, nếu coi văn Văn ngôn là “chữ viết của người xưa”, thì Bạch thoại là “tiếng nói của người nay”. Trong lịch sử Việt Nam, khi nói “học chữ Nho”, tức chính là học Văn ngôn - chữ Hán cổ, chứ không phải tiếng nói của họ. Bởi thế mới có chuyện các nho sĩ Việt Nam xưa như cụ Phan Bội Châu khi sang gặp Lương Khải Siêu (Trung Quốc) hay Khuyển Dưỡng Nghị (Nhật Bản), có thể bút đàm với nhau bằng Hán văn dù không nói cùng một thứ tiếng.
 

2. Âm Hán Việt (cách đọc Hán Việt)
 
Âm đọc Hán Việt là cách người Việt đọc chữ Hán, vốn dựa trên hệ thống ngữ âm tiếng Hán của người Hán vào khoảng thời Vãn Đường Ngũ Đại, cụ thể là Đường âm được truyền sang Giao Châu vào khoảng thế kỷ VIII-IX.

Tuy nhiên hệ thống âm đọc này không giữ nguyên như nguyên mẫu Trung Hoa mà biến đổi theo quy luật ngữ âm lịch sử tiếng Việt, dần hình thành một hệ thống riêng biệt, độc lập với tiếng Hán nhưng vẫn mang tính hệ thống hoàn chỉnh. Tức nghĩa là trên lý thuyết, người Việt có thể dùng cách đọc Hán Việt để đọc toàn bộ kho chữ Hán, tương tự người Hán đọc bằng âm bản địa của họ.
 
Vì vậy, cách đọc Hán Việt vừa là kết quả của sự tiếp xúc ngôn ngữ, vừa là sản phẩm nội sinh của người Việt trong quá trình tiếp nhận và bản địa hóa văn tự Hán. Ngoài “cách đọc Hán Việt” thì còn hình thành nhiều hiện tượng ngôn ngữ liên quan như tiếng Hán Việt, từ Hán Việt, yếu tố gốc Hán và những lớp vay mượn với mức độ Việt hóa khác nhau.
 
Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã phân biệt rõ:
 
(1) Cách đọc Hán Việt thiên về ngữ âm, tức là “vỏ âm thanh” mà người Việt gán cho chữ Hán, bất kể chữ đó có nghĩa trong tiếng Việt hay không. Ví dụ: Ta có thể đọc  chẩm,  giá,  ma,... dù chúng không tồn tại trong từ vựng tiếng Việt.
(2) Yếu tố gốc Hán đã du nhập vào tiếng Việt, có thể còn giữ quan hệ trực tiếp với chữ Hán như quốc , gia , sơn , thủy ,... hoặc đã biến dạng, xa gốc như mùa (vụ ), gần (cận ) hoặc mì chính, (vị tinh 味精),...
 
Từ đó, có thể hình dung ba khu vực:
- Khu vực I: Âm đọc Hán Việt thuần túy, chỉ liên quan đến ngữ âm
- Khu vực II: Yếu tố gốc Hán du nhập tiếng Việt nhưng không qua hệ thống ngữ âm tiếng Hán thời Đường (Hán Việt cổ, Hán Việt Việt hóa, từ mượn phương ngữ Hán)
- Khu vực III: Yếu tố Hán Việt vừa mang âm đọc Hán Việt, vừa được dùng trong tiếng Việt (tuyết , học , quốc , gia ). Xét về mặt ngữ pháp, có thể chia yếu tố Hán Việt này thành trường hợp chỉ là tiếng, không phải là từ (ví dụ: quốc, gia,…) và trường hợp vừa là tiếng, vừa là từ (ví dụ: tuyết, học,…).
 
3. Từ Hán Việt
 
Theo Nguyễn Thiện Giáp, “Chỉ được phép coi là từ Việt gốc Hán những từ nào thực sự nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Việt, chịu sự chi phối của các quy luật ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp của tiếng Việt.” (Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội) Như vậy, trong tiếng Việt hiện nay, từ gốc Hán gồm hai nhóm:
(1) Các từ đọc theo âm Hán Việt, gọi tắt là từ Hán Việt.
(2) Các từ gốc Hán không đọc theo âm Hán Việt, còn lưu dấu trong một số lớp từ cổ hoặc phương ngữ.
Tuy nhiên, rất khó để xác định yếu tố Hán Việt nào là từ Hán Việt và thật sự “nhập” vào hệ thống từ vựng tiếng Việt. Các từ điển tiếng Việt hiện hành không hoàn toàn thống nhất, mỗi từ điển cũng có số lượng mục từ khác nhau: Ví như huynh, tỷ, muội có trong Từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, nhưng lại vắng trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê. Ngoài ra, nhiều từ du nhập qua phim ảnh và mạng xã hội như thảo dân, nô tài, nương nương,… tuy chưa được ghi nhận trong từ điển, nhưng vẫn được người Việt sử dụng rộng rãi với nghĩa Hán Việt.
 
Từ góc nhìn khái quát, có thể định nghĩa: Từ Hán Việt là từ được cấu tạo bởi yếu tố gốc Hán đọc theo âm Hán Việt (Đường âm). Dù mức độ Việt hóa có thể khác nhau, song đặc trưng cốt lõi vẫn là cấu trúc yếu tố gốc Hán và âm đọc Hán Việt.
 
Chúng đã và đang gia nhập vào từ vựng tiếng Việt (thường xuất hiện trên các phương tiện truyền thông gần đây, có thể nói phần nào được người nghe hiểu và chấp nhận), như: thảo dân, nương nương, tỷ, muội,…; những từ do người Việt dùng yếu tố Hán Việt để tạo từ mới cho ngôn ngữ của mình như: dạ hội, hội trường, y tá, bệnh viện, thủy cầm,...
 
Bên cạnh đó, trong tiếng Việt còn tồn tại lớp từ bán Hán Việt, đó là những tổ hợp pha trộn giữa yếu tố Hán Việt và "thuần Việt" như bồi bàn, cảm mến, kỳ lạ, sống động,… phản ánh sức sáng tạo và khả năng dung hợp linh hoạt của tiếng Việt trong quá trình tiếp xúc văn hóa Hán - Việt.
 
4. Vấn đề “thuần Việt”:
 
Trong tiếng Việt, khó có thể xác định được yếu tố, từ ngữ nào là thuần Việt. Chữ “thuần” trong tiếng Việt có nghĩa là “chỉ toàn một thứ, một loại, không xen lẫn thứ khác, loại khác”. Như vậy để xác định yếu tố thuần Việt hay từ thuần Việt phải dựa vào ngôn ngữ học lịch sử, từ nguyên học, nhưng cái khó ở chỗ là lấy mốc thời gian nào để xác định và lấy công cụ nào làm chuẩn mực. Trong khi đó tiền thân của tiếng Việt hiện đại là tiếng Việt - Mường, bắt nguồn từ một chi của tiếng Môn - Khmer. Trong cuốn Tìm hiểu về tiếng Việt lịch sử, Nguyễn Ngọc San đã liệt kê hàng loạt từ có nguồn gốc Môn - Khmer như: rú, ruột, cháo, ác, tay, tai, mắt, măng, răng, mệ (mẹ), sấm, chớp, đăm (phải), chiêu (trái), ngái (xa),… Từ đó giải thích một số yếu tố được gọi là “mất nghĩa” trong từ song tiết tiếng Việt như gỡ có nghĩa là “gặp” (Hrê, Ba-na), mẻ có nghĩa là “mới” (Pacô, Tà-ôi), ỏi có nghĩa là “ít” (Mường), xỏ có nghĩa là “xin” (Tày, Nùng), sướng có nghĩa là “sân” (Mường), tăm có nghĩa là “tối” (Ba-na), bãi có nghĩa là “bừa” (Khmer), dột có nghĩa là “dại” (Tày), ngủi có nghĩa là “rất ngắn” (Khmer), gác có nghĩa là “gốc” (Thái), chóc có nghĩa là “chim” (Tày),… Từ đó có thể thấy rằng, để xác định được yếu tố nào là thuần Việt là một vấn đề mang tính mơ hồ, không dễ dàng... (xem Lê Văn Trung, Thử sơ đồ hoá khái niệm từ Hán Việt và một số thuật ngữ hữu quan, 2011, tr.147)
 
Tóm lại, chữ Hán, âm Hán Việt và từ Hán Việt tuy có quan hệ mật thiết nhưng không đồng nhất. Do đó việc người học tiếng Trung nhận diện được mặt chữ và đọc bằng âm Hán Việt không có nghĩa đó là tiếng Việt. Tiếng Việt mượn nhiều yếu tố Hán nhưng đã được Việt hóa, sáng tạo và sử dụng trong đời sống riêng của mình, tùy tiện đồng nhất âm Hán Việt với tiếng Việt sẽ dẫn đến hiểu sai về bản chất ngôn ngữ.
                                                          Theo Tri thư đạt lễ - 知書達禮
*

Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn Tài Cẩn (2004), Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
2. Trần Văn Chánh, Tản mạn kinh nghiệm học chữ Hán cổ
3. Lê Văn Trung, Thử sơ đồ hoá khái niệm từ Hán Việt và một số thuật ngữ hữu quan, Tạp chí Khoa học ĐH Sư phạm TP. HCM, số 29, 2011)

Không có nhận xét nào: