BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC
Hiển thị các bài đăng có nhãn NGÔN NGỮ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn NGÔN NGỮ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2024

TRÀ HAY CHÈ? - Pham Tuan Anh



Tại sao cùng là trà có nguồn gốc từ Trung Quốc lại có hai kiểu phát âm khác nhau trên thế giới?
 
Trà có tên gọi khác nhau trên thế giới chủ yếu do nguồn gốc ngôn ngữ và con đường giao thương mà trà được đưa đến các quốc gia khác nhau. Hai từ chính để chỉ trà là “tea”“cha”, mỗi từ phản ánh một lịch sử thương mại và văn hóa riêng.

 •“Tea”: Từ này có nguồn gốc từ tiếng Trung Quốc, cụ thể là từ chữ (chà), nhưng phát âm là “te” trong phương ngữ Mân Nam, đặc biệt là ở tỉnh Phúc Kiến. Khi trà được đưa vào châu Âu qua các thuyền buôn của thương nhân Hà Lan vào thế kỷ 17, họ đã mang theo cách phát âm này. Từ đó, “tea” đã trở thành từ phổ biến trong nhiều ngôn ngữ châu Âu như tiếng Anh (tea), tiếng Pháp (thé), tiếng Đức (Tee), tiếng Ý (tè) và tiếng Tây Ban Nha (té).
 
 •“Cha”: Ngược lại, từ “cha” bắt nguồn từ cách phát âm chữ trong tiếng Quan Thoại (Mandarin) và được sử dụng ở các quốc gia mà trà được nhập khẩu qua các con đường bộ như Con đường Tơ lụa. Các từ tương tự như “trà” trong tiếng Việt, “ocha” trong tiếng Nhật, “cha” trong tiếng Hàn, “chai” trong tiếng Hindi, “shai” trong tiếng Ả Rập và “chai” trong tiếng Nga đều xuất phát từ cách phát âm này.

                                                                                  Pham Tuan Anh

Thứ Hai, 7 tháng 10, 2024

VỀ BÀI THƠ “TIẾNG HẠT NẨY MẦM” (SÁCH TIẾNG VIỆT LỚP 5) - Vương Trung Hiếu, Phùng Hiệu



Vài ngày nay cư dân mạng xôn xao trước bài thơ “Tiếng hạt nảy mầm” của Tô Hà (sách Tiếng Việt lớp 5). Nhiều người khen, song cũng lắm kẻ chê bài thơ này, đặc biệt là cho rằng tác giả đã chế ra những từ khó hiểu, chẳng hạn như từ “ánh ỏi” trong câu thơ “Hót nắng vàng ánh ỏi”.
 
Xin thưa, có những từ ngày nay hiếm khi hoặc không còn sử dụng, song chúng đã thật sự tồn tại trong văn bản tiếng Việt (chữ Nôm và chữ Quốc Ngữ). Do đó cần tìm hiểu kỹ, ít nhất là tra từ điển, trước khi phê phán, chê bai, thậm chí là chửi người khác.
 
Trên thực tế, từ “ánh ỏi” xuất hiện trễ nhất cũng từ thế kỷ 17, được viết bằng chữ Nôm là 朠喂 (ánh ỏi). “Ánh ỏi” có nghĩa là “tiếng vút cao, du dương”, ví dụ:  “Tao nhân ánh ỏi (暎喂) hứng thơ ngâm” (“Hồng Đức Quốc âm thi tập” của Hội Tao Đàn do Lê Thánh Tông chủ trì) hoặc “Thông đưa gió tiếng cầm tranh ánh ỏi” (暎喂) - “Lê triều ngự chế quốc âm thi” của An Đô Vương Trịnh Cương.
Ngoài ra “ánh ỏi” còn được viết bằng chữ Nôm khác là 朠喂, ví dụ: “Ca xoang ánh ỏi (朠喂 ) khéo chiều người”  (“Khâm định Thăng bình bách vịnh” của Trịnh Tùng).
 
(Những ví dụ trên trích từ “Tự điền chữ Nôm dẫn giải” của Nguyễn Quang Hồng). 

                                                                             Vương Trung Hiếu

Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2024

SAO LẠI GỌI LÀ “KHÓC NHƯ RI”? – Hoàng Tuấn Công

Một trăm đứa khóc như ri,
Không bằng một đứa nó đi giật lùi
                                         (Ca dao)

Hình ảnh chim ri bị bắt nhốt làm chim phóng sinh, nhiều con bị chết trước khi, hoặc chết ngay sau khi được thả.

https://tuoitre.vn/nhoi-long-xac-chim-roi-xuong-khi-vua...
 
Thành ngữ “khóc như ri” được nhiều cuốn từ điển tiếng Việt thu thập và giải nghĩa:

 -Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức) giảng “khóc như ri” là “Khóc nhiều, tiếng nhỏ mà đều”.
-Từ điển từ và ngữ Việt Nam (GS Nguyễn Lân) giảng: “khóc như ri” là “Khóc lâu và thảm thiết”, và lấy ví dụ “Mấy ngày liền chị ấy khóc như ri”.
-Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên) giảng: “khóc như ri • Khóc la ầm ĩ, nhiều tiếng khóc cùng oà lên một lúc: Họ đổ ra các khe cửa nhòm ngó hỏi nhau, bàn tán, quát tháo, van lạy, chửi rủa và oà lên khóc như ri”.
-Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam (Nhóm Vũ Dung): “khóc như ri • Khóc râm ran, nhiều tiếng khóc cùng một lúc (thường nói về trẻ con khóc)”.
 
Theo như trên thì tất cả các cuốn từ điển đều không đề cập gì đến nghĩa đen câu thành ngữ; mặt khác, về nghĩa bóng cũng không có sự thống nhất về cách hiểu.
 

Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2024

VÌ SAO GỌI LÀ “MƯA NGÂU, ÔNG NGÂU BÀ NGÂU... ? – La Thụy


6 cách viết NGÂU theo tự dạng chữ Nôm trong quyển “Tự Điển Tiếng Nôm” của Lê Văn Kính

Hôm nọ, anh em khi trà dư tửu hậu có người thắc mắc vì sao gọi là “mưa ngâu”, vì sao gọi là “ông ngâu bà ngâu”. Tất nhiên, truyền thuyết Ngưu Lang Chức Nữ được đưa ra để giải thích. Người thắc mắc lại hỏi vậy sao không gọi là “mưa ngưu”, “ông ngưu bà ngưu”. Một ông bạn cho rằng “ngâu” là cách đọc chệch chữ Ngưu. Thế là một ông bạn khác cười chế nhạo: “mưa ngưu”“mưa trâu” “ông ngưu bà ngưu”“ông trâu bà trâu” à !?!  Vì sao có sự đọc chệch như thế ? Mà vì sao không đọc chệch theo cách khác đi?
 
Ông bạn khác lại cho rằng:
Gọi là “mưa ngâu”, “ông Ngâu bà Ngâu” vì loài hoa ngâu gắn liền với câu chuyện tình Ngưu Lang – Chức Nữ từ xa xưa. Hoa ngâu mang ý nghĩa về một tình yêu thủy chung, với khát vọng tự do trong tình yêu.  Nhưng ông bạn lại không nêu được sự liên quan giữa Ngưu Lang Chức Nữ và hoa ngâu như thế nào trong truyền thuyết.
 
Tôi nghĩ ông bà của ta xưa gọi là “mưa ngâu”, “ông ngâu bà ngâu” chắc có lý do, mình thử tra tìm tiếng “NGÂU” trong chữ Nôm (chữ viết của ông bà ta hồi xưa) xem sao! Chữ Nôm vốn mượn âm và chữ của Hán Tự mà, nên chắc chắn có liên quan về cách viết, cách đọc thôi.
 
Hỏi thăm những bậc tiền bối về Hán Nôm, họ cho biết có tới 6 cách viết NGÂU theo chữ Nôm. Đó là âm đọc chữ Hán “ngưu” (trâu); kế tiếp là: chữ “ngưu” bộ mộc, chữ “ngưu” bộ thảo; chữ “ngô” bộ mộc; chữ “ngô” bộ thảo; chữ “ngao” bộ mộc.
 
Tra từ điển Hán Nôm trên mạng, tôi tìm ra chỉ có 4 cách viết. 



Vẫn còn thiếu 2 cách viết sau :
 - NGÂU là âm Nôm đọc chữ đọc chữ Hán “ngưu” có bộ mộc: Hoa ngâu.
- NGÂU là âm Nôm đọc chữ đọc chữ Hán “ngao” có bộ mộc: Hoa ngâu.

Thứ Tư, 7 tháng 8, 2024

CÁC HẠ 閣下, TÚC HẠ 足下, TẠI HẠ 在下 , CÁCH XƯNG HÔ TRONG TRUYỆN KIẾM HIỆP TÀU– Theo Chiết tự chữ Hán




CÁC HẠ 閣下
 
Xưa người ta thường tôn xưng các quan chức hoặc người trên là CÁC HẠ.
Các là lầu các, lầu gác; “các hạ 阁下 có nghĩa đen là ở dưới lầu gác.
 
 Theo sách Nhân Thoại Lục thì thời cổ các quan Tam công có lầu các riêng làm dinh thự, các quan quận huyện cũng có lầu các. Nên sau dùng hai tiếng CÁC HẠ nghĩa là “dưới gác” để tôn xưng các quan.
 
TÚC HẠ
足下
 
“Túc là chân; “túc hạ 足下 có nghĩa đen là ở dưới chân.
Nhìn thấy bậc tôn quí, tôi cũng không dám nhìn vào mặt ngài, tôi chỉ dám nhìn ở dưới chân, có nghĩa là cúi đầu. Quyền lực nằm ở dưới chân, thì nhìn xem bàn chân nằm dưới chân đi về hướng bên nào, đây gọi là “cử túc khinh trọng” (举足轻重, có nghĩa rất quan trọng, nhất cử nhất động đều liên quan đến toàn cục). Bàn chân này của ngài thật quả có sức nặng.
 
Hai chữ TÚC HẠ người Tàu cũng dùng để tôn xưng có giá trị như tiếng NGÀI của ta vậy.
Về lai lịch của từ “túc hạ”, có liên quan đến một câu chuyện đau buồn:

Đời Xuân Thu, vua Tấn Văn Công nước Tấn gặp loạn phải bỏ nước lưu vong, gặp được một hiền sĩ tên là Giới Tử Thôi theo giúp. Về sau, Tấn Văn Công trở về làm vua, phong thưởng cho những người có công nhưng lại quên mất Giới Tử Thôi. Giới Tử Thôi không oán giận gì, về nhà đưa mẹ vào núi ở ẩn. Tấn Văn Công nhớ ra, cho người đi tìm. Vì Giới Tử Thôi không chịu ra lĩnh thưởng, Tấn Văn Công hạ lệnh đốt rừng để ép ông phải ra; cuối cùng, hai mẹ con ông đều chết cháy. Vua thương xót, lập miếu thờ và hạ lệnh kiêng đốt lửa ba ngày, chỉ ăn đồ ăn nguội đã nấu sẵn để tưởng niệm. Tấn Văn Công còn sai người chặt một khúc gỗ nơi cây Tử Thôi ôm đem về cung làm thành đôi guốc. Mỗi khi tưởng nhớ đến Giới Tử Thôi bèn nhìn xuống chân, than rằng: Đau xót thay, túc hạ!
Từ đấy hai tiếng TÚC HẠ dùng làm tiếng tôn xưng người khác. “túc hạ” có nghĩa đen là dưới chân, nhưng hoàn toàn không phải chỉ việc bị người ta giậm ở dưới chân, mà là lấy ý nhìn thấy vật nhớ đến người, cảm niệm tình hữu nghị, biểu đạt sự tôn kính đối với bằng hữu.
 
 TẠI HẠ 在下

“Tại hạ” là từ gốc Hán (nguyên ngữ 在下, có nghĩa đen là ở bên dưới). “Tại hạ” là lời khiêm xưng.
 
Người Trung Quốc xưa thường dùng “khu khu tại hạ”  區區 在下 để biểu thị lời khiêm xưng, “khu khu” cũng có thể thay thế cho “tại hạ”.

Khu khu 區區: tầm thường, nhỏ bé.
 
“Tại hạ” thường dùng nhiều trong Hí khúc Trung Quốc, hiếm gặp trong chính sử, thuộc lối xưng gọi không sách vở cho lắm. Còn có thuyết nói “tại hạ” là lời tự xưng của dân giang hồ. Mà thực tế, đọc truyện kiếm hiệp Tàu, ta thấy các nhân vật trong truyện thường tự xưng là “tại hạ” khi đối thoại.
 
Từ này có xuất xứ từ chuyện thời xưa ở Trung Quốc khi vào bàn tiệc, bậc tôn trưởng ngồi ở bên trên, cho nên người ta tự xưng mình là “tại hạ” (tức kẻ ngồi ở bên dưới) một cách khiêm nhường.
 
                                                                     Theo Chiết tự chữ Hán

Thứ Năm, 1 tháng 8, 2024

BÁNH DA LỢN? – Matthew NChuong

 
           
Ghi chú lai rai cho nhẹ đầu...: "BÁNH DA LỢP"
Quí bạn đều nghe nói riết quen luôn, "bánh da lợn". Ủa, trong Nam gọi "heo" chớ đâu bao giờ gọi "lợn" (cách gọi ngoài Bắc, chỉ cùng một con vật)? Vậy, loại bánh này phải chăng có gốc từ ngoài Bắc nên gọi "bánh da lợn"? Hoàn toàn KHÔNG phải.
Ngoài Bắc, không có món này, mà chỉ ở miền Nam mới có món này đó đa!
 

Thứ Bảy, 6 tháng 7, 2024

XIẾT” VÀ “SIẾT” - Nguyễn Hoàng Tuân



Đây là từ thường bị dùng nhầm lẫn, vậy làm sao để phân biệt chúng?
Trước hết, ta quay về định nghĩa:
“Siết” là một động từ, thường để chỉ sự vây lấy và thắt chặt (siết cổ, ôm siết con vào lòng, siết ốc vít…)
“Xiết” thì có nhiều nghĩa hơn, mà nghĩa thông dụng nhất là “cho đến cùng, không thể diễn tả được” (gặp lại nhau vui mừng khôn xiết”, “tình mẹ không sao kể xiết”, “đẹp không tả xiết”…). Bên cạnh đó, từ này còn mô tả một trạng thái chuyển động mạnh nhưng nhanh, mỏng mà lại áp sát vào một vật khác hoặc bề mặt, như trong câu nói: má phanh xiết vào bánh xe (cũng có thể nói má phanh siết vào bánh xe), lưỡi dao mài xiết trên phiến đá…
 
Như vậy, nói “siết nợ” hay “xiết nợ” thì đúng?
 
Căn cứ vào định nghĩa như trên, ta thấy dùng “siết nợ” sẽ hợp lý hơn vì đây là hành vi làm trói buộc, ép chặt con nợ. Hay hiểu theo nghĩa đen thì, khi đến nhà con nợ mà thấy của cải thì cột chặt lại, quản lý thật chặt, không để tẩu tán, sang tay cho người khác nên phải dùng “siết”.
Tuy nhiên hiện nay, “xiết nợ” do được dùng quá phổ biến nên cũng đang dần được chấp nhận.
 
                                                                           Nguyễn Hoàng Tuân

*
Nguồn: Tiếng Việt giàu đẹp

Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2024

“CƠM CHIM” LÀ CƠM GÌ? – Hoàng Tuấn Công



Tục ngữ Việt Nam có câu “Ai nỡ ăn cướp cơm chim” (Dị bản “Ai nỡ ăn cướp cơm chim mắm vét”). Ngoài ra còn có thành ngữ “Ăn cướp cơm chim”, được nhiều sách thu thập và xếp vào diện tục ngữ (*).
Vậy “cơm chim” là cơm gì?
-Việt Nam tự điển (Hội Khai trí Tiến đức) giảng: “cơm chim” Cơm của chim ăn. Nghĩa bóng nói cái mồi nhỏ, cái lợi nhỏ: Ăn cướp cơm chim (hà-hiếp kẻ cô-cùng mà cướp giật lấy của cải không đáng là bao)”.
-Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức): “cơm chim dt. Cơm cho chim ăn. • Mối lợi nhỏ bị giành-giựt, bị chận lấy: Ăn cướp cơm chim”.
-Từ điển Việt Nam phổ thông (Đào Văn Tập): “cơm chim. Cơm của chim ăn. Ăn cướp cơm chim: cướp cả phần của người nghèo khó”.
-Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên): “cơm chim • dt. Cái (thường là lợi lộc) quá ít ỏi, chẳng đáng là bao ví như cơm để cho chim ăn vậy: ăn cướp cơm chim (tng.)”.
-Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên – Vietlex): “cơm chim • d. [cũ] cơm rất ít ỏi, tựa như để cho chim ăn; thường dùng để ví cái tuy quá ít ỏi, chẳng đáng là bao nhưng lại rất cần thiết để nuôi sống”. “Suốt một tháng trời đầu tắt mặt tối mới lĩnh được năm đồng bạc mà nó lại ăn cướp cơm chim như thế, lương tâm của nó đâu nào?” (Vũ Trọng Phụng).
-Từ điển tục ngữ Việt (Nguyễn Đức Dương) thu thập “Ai nỡ ăn cướp cơm chim”, và chú thích “cơm chim” là “thứ cơm được rắc ra sân cho chim ăn”, rồi giảng: “Ai nỡ ăn tranh với chim vài hạt cơm cơm (ít ỏi) được vãi ra để nuôi sống nó. Hay dùng để khuyên mọi người là chớ có làm điều đê tiện với những ai yếu thể hơn kẻo dễ bị mang tiếng xấu với đời”.
Như vậy, đa số các cuốn từ điển đều thống nhất cách hiểu “cơm chim”“cơm cho chim ăn” hoặc “cơm rất ít ỏi, tựa như để cho chim ăn”.
 
Tuy nhiên, “cơm chim” không phải là “cơm cho chim ăn” (khái niệm này không tồn tại trong cuộc sống hàng ngày), mà là nắm cơm nhỏ, vừa lòng bàn tay, gọi là “cơm nắm chim chim”.
“Chim chim” vốn chỉ động tác của bàn tay nắm vào mở ra của trẻ con ở lứa tuổi chập chững. Chúng hiếu động, thích khám phá, nên khi nhìn thấy các loài gia cầm như chim bồ câu, gà vịt trong sân nhà thì hai bàn tay liên tục mở ra, nắm vào miệng gọi “chim chim”, như muốn bắt để chơi đùa. Khi bồng bế hay chơi với trẻ, người lớn cũng thường tập cho chúng vận động tay chân và tập nói bằng cách giơ bàn tay mở ra nắm vào, miệng nói “chim chim” hoặc nói “xôi xôi; nắm xôi nắm xôi”.
 

Thứ Hai, 15 tháng 4, 2024

NHỮNG CHỮ CÓ LẼ DÙNG SAI TRONG NGÔN NGỮ VIỆT NAM?



1.- Sai vì không hiểu nghĩa gốc Hán Việt

 *CHUNG CƯ.  Từ kép nầy được thành lập theo văn phạm Hán Việt vì tính từ đứng trước danh từ cho nên cả 2 từ phải đều là Hán Việt. Thế mà từ chung Hán việt không có nghĩa là chung chạ mà có nghĩa là cuối cùng. Vậy chung cư 終居 không phải là nơi nhiều người ở chung mà là nơi ở cuối cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy phải đổi từ chung cư thành chúng cư 衆居 thì mới ổn.
 
*KHẢ NĂNG. “Khả năng” là năng lực của con người, có thể làm được việc gì đó. Thế mà người ta đã viết và nói những câu đại loại thế nầy: Hôm nay, khả năng trời không mưa. Khả năng con bò nầy sẽ chết vì bị bệnh… Nghe thực là kỳ cục và đáng xấu hổ. Tôi cho rằng, người ta đã nhầm lẫn giữa hai từ khả năng (capacité, capable) với khả dĩ (possibilité, possible). Nhưng thôi, chúng ta nên dùng từ thuần Việt là có thể, đúng và dễ hiểu, còn từ khả năng chỉ nên dùng để nói về năng lực mà con người mà thôi.
 
*QUÁ TRÌNH. Quá là đã qua, trình là đoạn đường. Quá trình là đọan đường đã đi qua. Nói thế nầy là đúng: “Quá trình thực hiện công việc đã gặp nhiều trở ngại. Nhưng tôi lại thấy trong sách báo câu đại loại thế nầy: “Quá trình thực hiện công tác sắp tới của tôi là sẽ rất thuận lợi.” Thực là sai lắm rồi. Trong trường hợp nầy, phải dùng chữ tiến trình, đúng cho cả 3 thì quá khứ, hiện tại và tương lai.
 
*HUYỀN THOẠI. Người viết, kể cả những người có bằng cấp cao, không chịu học tiếng Hán, mà lại thích dùng tiếng Hán để tỏ ra “ta đây” nên nhiều tiếng được dùng sai nghĩa một cách thực buồn cười. Thí dụ, tôi rất thường nghe đài truyền hình, truyền thanh và báo chí nói “huyền thoại Pélé” “huyền thoại Maradona.”. Người có học nghe thực chướng tai, nhưng người nói chẳng ngượng miệng chút nào. Tại sao nghe chướng tai? Huyền là màu đen, nghĩa bóng là sâu xa, mờ ảo, không có thực. Thoại là câu chuyện. Vậy huyền thoại là câu chuyện mờ mờ ảo ảo, không có thực, do truyền miệng mà ra. Thí dụ chuyện bà Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, chuyện ông Thánh Gióng cỡi ngựa sắt đi đánh giặc Ân là những huyền thoại. Đằng nầy, ông Maradona, ông Pélé có thiệt 100% sao gọi là huyền. Và 2 càu thủ đó là con người sao gọi là thoại được. Nếu muốn dùng chũ huyền thoại để đề cao 2 cầu thủ đó thì phải nói thế nầy: “Cái tài của 2 ông nầy tưởng như chỉ có trong huyền thoại.” Ông bà mình thường nói: “Dốt thì hay nói chữ, có đúng trong trường hợp nầy hay không?”
 
*HÔN PHU, HÔN THÊ. Hôn là cưới, phu là chồng, thê là vợ. Trong chữ phu và chữ thê đã có nghĩa của chữ hôn rồi cho nên gọi hôn phu và hôn thê là để chỉ người chồng người vợ là phi lý. Gọi hôn lễ (lễ cưới) hôn phối (lấy nhau) thì được. Còn nói hôn phu, hôn thê thì có thể hiểu 昬夫,昬妻 là nguời chồng u mê, người vợ u mê cũng như nói hôn quân 昬君 là nhà vua u mê vậy.
 

Thứ Hai, 1 tháng 4, 2024

CÓ CHĂNG, TIẾNG HÁN VIỆT? – Bùi Kim Sơn



Tiếng nói của bất cứ một dân tộc nào cũng vậy, đều biến thiên theo thời gian, không gian, và nhất là trong giao tiếp giữa các dân tộc. Biến thiên, nhưng là biến thiên để hoàn thiện.
 
Tiếng Việt cổ cũng vậy. Xưa, có rất nhiều tiếng còn khá thô mà người thời nay nghe vô cùng lạ tai. Không nói tới tiếng gốc của cả đại chủng trong đó có các nhóm Bách Việt, ngay cả tiếng Việt vào thế kỷ 17, khi các vị linh mục Dòng Tên Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… qua Việt Nam và với mong muốn tạo nên một loại chữ phục vụ cho việc truyền giáo (và cũng nhờ đó mà ngày nay ta có được chữ Quốc Ngữ), đã vô cùng vất vả khi nghiên cứu dùng chữ cái Latin để ký âm cho tiếng Việt.
 
Do các vị đều là những nhà trí thức, nhà ngôn ngữ học… nên khỏi phải nói tới công cuộc nghiên cứu kỹ lưỡng cho việc ký âm. Như câu sau đây trong Kinh Lạy Cha, bản gốc in năm 1632, đã cho thấy công trình này vất vả như thế nào:
“Cia ciúm toi oẽ tlen bloèi ciúm toi nguyẽn daim Cia cã sám”.
Và theo chính tả được Alexandre de Rhodes chuẩn hóa trong Tự điển Việt Bồ La in năm 1651, câu kinh này đã được viết lại như sau:
“Cha chúng tôi ở tlên blời, chúng tôi nguiẹn danh Cha cả sáng” (Cha chúng tôi ở trên trời, chúng tôi nguyện danh Cha cả sáng).
 
Phải lan man như vậy để thấy rằng tiếng Việt ngày xưa hãy còn thô thiển như thế nào. Nhưng cho tới ngày nay, bốn thế kỷ sau, tiếng Việt cũng như chữ Việt đã trở nên hoàn thiện tới mức không còn thể nào hoàn thiện hơn được nữa.
Trở lại với sự biến thiên của tiếng nói. Biến thiên theo không gian, thời gian là điều đương nhiên. Nhưng biến thiên do giao tiếp qua lại giữa các dân tộc với nhau mới là yếu tố quan trọng mà rõ nét nhất là tiếng Hán Việt.
 

Thứ Bảy, 23 tháng 3, 2024

TIẾNG VIỆT THỜI NAY – Nguyễn Tuấn



Tui là người lớn lên với Tiếng Việt thời trước 1975, tức là Tiếng Việt trong Tự Lực Văn Đoàn của những Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam,... Đó cũng là tiếng Việt của các tiền bối như Hoàng Xuân Hãn, Phạm Quỳnh, và sau này là Mai Thảo và nhóm tạp chí Bách Khoa lừng danh một thời. Đó cũng chính là Tiếng Việt thời 1945 và sau này được gìn giữ ở trong Nam.
 
Thời đó, chúng tôi nói và viết Tiếng Việt theo thứ tự tự nhiên. Chẳng hạn như chúng tôi được dạy là 'hôi thúi' (hay 'hôi thối') vì một vật thể khi bị chết đi, nó đi từ 'hôi' mới đến 'thúi.' Chúng tôi nói 'khai triển' (khai trương rồi mới phát triển). Các thầy dạy cho biết đó là cách nói của người Việt được coi là thuận với thiên nhiên.
 
Do đó, ngày xưa, Tiếng Việt chúng ta được cấu trúc theo công thức tự nhiên đó. Có thể tìm thấy những chữ thường ngày như: bảo đảm, đơn giản, thành hình, khai triển, ít nhiều, v.v.
 

Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2024

TẠI SAO TRƯỚC 75, Ở SÀI GÒN KHÔNG TÂNG BỐC CA SĨ LÀ “DIVA”? - Matthew Nchuong


Bộ tứ Diva Việt Nam: Thanh Lam, Hồng Nhung, Mỹ Linh, Trần Thu Hà

Trong từ điển Oxford, chữ “diva” được mượn từ tiếng Ý, ban đầu nghĩa là “nữ thần" để gọi những
Nữ danh ca opera, đặc biệt cho giọng hát soprano.
Còn nam danh ca opera giọng tenor thì được gọi là “divo”.
Nhưng về sau “diva” đã trở thành một danh từ dùng để dè bĩu đối với loại phụ nữ ngạo mạn, “thượng đội hạ đạp” - (“diva is a woman regarded as temperamental or haughty”)
(một người đàn bà bị xem là có tính nết cáu kỉnh hay ngạo mạn, khinh rẻ nhân gian).
 

Chủ Nhật, 3 tháng 3, 2024

DÙNG TỪ NGỮ “GA TÀU THỦY BẠCH ĐẰNG” NHƯ VẬY CÓ ĐÚNG KHÔNG? - Nguyễn Gia Việt



Lịch sử, văn hóa Sài Gòn đã có sự khó hiểu, sai lệch từ những năm sau này, khi mà chữ nghĩa Miền Nam đã bị thay đổi.
 
Lịch sử Bến Bạch Đằng đơn giản. Đây vốn là đất Kompong Luông vùng Sài Gòn. Pháp qua đặt tên đường từ cột cờ Thủ Ngữ tới công trường Mê Linh là Quai le Myre de Vilers, đoạn còn lại tới Ba Son là Quai d’Argonne.
 
Sau 1955 tổng thống Ngô Đình Diệm nhập hai đoạn đường lại đặt thành Bến Bạch Đằng. Kêu là bến vì đây là đại lộ ven sông, dưới là bến sông nhiều ghe tàu. Sau 1975 Bến Bạch Đằng bị xóa tên, đặt thành đường Tôn Đức Thắng. Tuy nhiên người Sài Gòn vẫn kêu là Bến Bạch Đằng. Và nay xuất hiện “ga tàu thủy” tại bến Bạch Đằng.

Thứ Sáu, 2 tháng 2, 2024

NÊN VIẾT “XỬ DỤNG” HAY “SỬ DỤNG” – Gs Trần Huy Bích



Trong cuốn Ngữ vựng tiếng Việt đầu tiên (Westminster, CA, 2017), nơi trang 6, Giáo sư Trần Ngọc Ninh cho biết theo nhận xét của ông, “trong số các nhà văn nhà báo, có chừng 50 phần trăm viết ‘sử dụng’ và áng 50 phần trăm viết ‘xử dụng’.” Nhân thấy hai phía “tương đương,” Gs. Ninh không tỏ ra thiên về phía nào. Ông dẫn lời một nhà làm tự điển, “thói quen là vua trong ngôn ngữ” (sách đã dẫn, cùng trang).

Thứ Ba, 26 tháng 12, 2023

VIẾT XMAS, THAY VÌ CHRISTMAS, ĐÚNG HAY SAI? - Minh An



Rất ít thứ có thể châm ngòi cho các “cuộc chiến tranh văn hóa” như từ viết tắt “Merry Xmas” tưởng chừng như vô hại và vô thưởng vô phạt. Nhiều người, đặc biệt những tín đồ Cơ đốc giáo sùng đạo, tin rằng “XMas” là một nỗ lực nhằm “phi Cơ đốc giáo hóa” (de-Christianize) một trong những ngày lễ thiêng liêng nhất của Cơ đốc giáo.
 
Lập luận này nêu rằng, bằng việc dùng “Xmas” thay vì “Christmas”, người ta đã xóa bỏ “Chúa Kitô” (“Christ”) ra khỏi ngày lễ thánh kỷ niệm sinh nhật của Người.
 
Tuy nhiên, như Daniel Payne viết trên Catholic News ngày 22 Tháng Mười Hai 2023, trên thực tế, thực chất vấn đề gần như hoàn toàn ngược lại: “XMas” là một sự đổi mới hoàn toàn của Cơ đốc giáo, nhằm bảo tồn hình ảnh Chúa Kitô là trung tâm của lễ Giáng sinh dưới hình thức viết tắt. Vậy làm thế nào từ “Christ” lại biến thành “X?”
 

Thứ Sáu, 15 tháng 12, 2023

CHỮ NHO... DỄ HỌC (1) – Đỗ Chiêu Đức


                             
LỜI NÓI ĐẦU
         
"CHỮ NHO... DỄ HỌC". Trước tiên, đây là những hồi ức của một thời giảng dạy chữ Nho trên lớp, được viết lại để gợi nhớ cho một thuở vàng son đã đi qua, và cũng để tự ôn tập lại những kiến thức đã lâu ngày bị bỏ xó vùi chôn trong đống tro tàn của dĩ vãng. Vì thế, "CHỮ NHO... DỄ HỌC" là những bài viết trao đổi trên mạng qua hình thức email với các bạn bè, thân hữu, cựu học sinh, sinh viên ... ở hải ngoại trên khắp thế giới với mục đích vừa tiêu khiển, vừa gợi nhớ, vừa nhắc nhở lại những gì của quê hương Tổ Quốc đã qua để làm ấm lại chút lòng của những kẻ tha phương cầu thực đang sống tạm dung nơi xứ lạ quê người.
         
Vì là những bài viết trao đổi nhau để cùng học tập, nên "CHỮ NHO... DỄ HỌC" không phải là những bài học nghiêm chỉnh như sách giáo khoa chính thống. Đây chỉ là những bài giảng mang tính chất phiếm luận, tùy hứng và tự nhiên như là những lời đang giảng trên lớp của một giảng viên thỉnh giảng không một chút chính quy nào cả!
        
Cho nên, " CHỮ NHO... DỄ HỌC " được viết với những thói quen như sau:
   - Sử dụng từ ngữ tự nhiên của người dân đồng bằng Nam Bộ theo tập quán của dân Nam Kỳ Lục Tỉnh. Sử dụng nhiều từ " Thì, Là, Mà..." như đang nói chuyện.
   - Giảng lan man tùy hứng như một bài phiếm luận không theo một trình tự nào nhất định cả. Vừa cổ vừa kim, khi Đông khi Tây, lúc văn ngôn lúc thì bạch thoại....
   - Đôi khi lặp tới lặp lui nhiều lần một điển tích, một giai thoại văn học, một từ ngữ đặc biệt... để người đọc dễ nhớ và khỏi phải tra cứu lại tài liệu hay mất công tìm lại ở những bài viết trước.
   - Không có phần bài tập cho mỗi cuối bài, mà thay vào đó là phần Câu Đố Chữ lý thú cho mỗi cuối bài học.
       
"CHỮ NHO... DỄ HỌC" được soạn là do sự cổ vũ khuyến khích của các thân hữu gần xa với chút lòng của kẻ tha hương dị quốc ước mong được góp một chút gì đó để duy trì văn hóa dân tộc cho các thế hệ mai sau.
   
Học hải vô nhai, biển học mênh mông, dù cho có cẩn trọng như thế nào cũng không thể tránh khỏi có điều sai sót. Kính mong các bậc cao minh niệm tình hạ cố chỉ giáo cho.       
Rất lấy làm hân hạnh ! 
                                                                                        杜紹德
                                                                                   Đỗ Chiêu Đức 
*             
CHỮ NHO ... DỄ HỌC 
                                      
Bài 1:
          
Như ta đã biết, chữ NHO tức là chữ Hán cổ, công cụ dùng để truyền bá đạo Nho của đức Khổng Phu Tử mà thành tên. “Chữ Nho … Dễ Học” là cách nói khuyến khích cho người học bớt thấy khó khi học chữ Nho mà thôi.            
Chữ Nho được hình thành bởi Lục Thư là : Tượng Hình, Chỉ Sự, Hội Ý, Hài Thanh, Chuyển Chú và Giả Tá. Bây giờ thì ta bắt đầu ...Vỡ Lòng bằng chữ Tượng Hình nhé!

Thứ Sáu, 8 tháng 12, 2023

Ý NGHĨA CHỮ TỬ (死) TRONG HÁN TỰ



Chữ TỬ (sǐ) là một chữ Hội Ý. Trong các dạng cổ văn, chữ mô tả hình ảnh một người quỳ gối khóc thương trước di cốt của người đã chết, theo quá trình diến tiến biến đổi dần thành hình thể như ngày nay. Chữ ở khải thư là hội hợp của hai bộ . NGẠT là hình ảnh của hộp sọ có vết nứt, tượng trưng cho bộ xương người chết, trong khi biểu thị cho người quỳ gối khóc thương, nên có nghĩa là chết hay sự chết.
 
TỬ là CHẾT, là trái với SINH, là Không còn sinh khí nữa, kể cả Sinh Thực Vật cũng thế!
Ngoài nghĩa TỬ VONG 死亡 là Chết Chóc ra, ta còn có ...
TỬ CẢNH 死景 : là Cảnh chết, cảnh giả không sinh động.
TỬ GIÁC 死角 : là Góc chết, là Cái thế không có lối ra.
TỬ LỘ 死路 : là Con đường chết, con đường không có lối thoát.
TỬ còn có nghĩa là Cố Chấp, Kiên Trì, như ...
TỬ THỦ 死守, TỬ CHIẾN 死戰, TỬ TÂM 死心 : Cố chấp giữ vững lòng mình, quyết không thay đổi!
 
⭐⭐⭐
 
Nội dung bài viết được trích xuất từ BỘ TÀI LIỆU HỌC CHỮ HÁN, tài liệu do nhóm quản trị fanpage biên soạn theo nguồn gốc và lục thư.

*
Nguồn:
https://www.facebook.com/365156676938517/posts/2920826984704794/?locale=hi_IN

Phụ lục:


Chữ Tử trong Hán tự thông dụng nhất là , có nghĩa là con cái, con trai. Ngoài ra, chữ Tử còn có nhiều cách viết khác nhau trong Hán tự và có những ý nghĩa khác nhau:
 
TỬ : chỉ một cách viết thông dụng này, nhưng có nhiều nghĩa khác nhau:
Con. Bất luận trai gái đều gọi là tử.
Thầy, đàn ông nào có học vấn, đức hạnh đều gọi là tử cả:
Khổng-tử 孔子, Mạnh-tử 孟子, Tuân tử 荀子, Hàn Phi tử 韓非子
- Con cháu gọi người trước cũng gọi là tiên tử 先子, vợ gọi chồng là ngoại tử 外子, chồng gọi vợ là nội tử đều là tiếng xưng hô tôn quý cả.
Gã, dùng để gọi các kẻ tầm thường, như chu tử 舟子 chú lái đò, sĩ tử 士子 chú học trò, v.v.
Tước tử, tử tước 子爵 tước thứ tư trong năm tước (công, hầu, bá, tử, nam)
Mầm giống các loài động vật thực vật cũng gọi là tử, như ngư tử 魚子 giống cá, tàm tử 蠶子 giống tằm, đào tử 桃子 giống đào, lí tử 李子 giống mận, v.v.
Số lẻ, đối với số nguyên mà nói, như phần mẫu 分母, phần tử 分子. Phần vốn là mẫu tài 母財, tiền lãi là tử kim 子金, v.v.
Tiếng giúp lời, như tập tử 摺子 cái cặp, cháp tử 劄子 cái thẻ, v.v.
Có nghĩa như chữ từ .
Một âm là tí, chi đầu trong mười hai chi. Từ mười một giờ đêm đến một giờ đêm là giờ tí.

*
Ngoài ra TỬ còn có những cách viết khác nhau và có những ý nghĩa khác nhau
 
Tử : Màu đỏ tím, dây thao, họ “Tử”
Tử : Gánh vác, đảm nhận, cẩn thận, tỉ mỉ,…
Tử : Cây Tử (dùng để đóng đàn), vật làm bằng gỗ, quê cha đất tổ, cố hương, họ Tử,…
Tử : Hạt giống (cây trồng).
Tử : Rượu ngon.
Tử : Lấy đất đắp vào gốc lúa cho chắc.
Tử : Chê bai, phỉ báng, bệnh hoạn, uể oải, biếng nhác,…
Tử : Kém, yếu, cẩu thả, lười nhác, bại hoại,…
Tử : Cứng.
Tử : Cứng, kẽm, (Zn).