BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Hai, 28 tháng 7, 2025

VÀI CẢM XÚC VỚI BÀI THƠ “MEN ĐẮNG" CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN – Nguyễn Thành


Ảnh tác giả Nguyễn Thành

Vô tình đọc được bài thơ hay Men đắng của tác giả Đặng Xuân Xuyến, tôi phải đọc đi, đọc lại vài lần cho chất men ủ 15 năm nó thấu tâm can, luồn vào những ngõ ngách của quá khứ với những trắng đen của nhân tình thế thái lắng tận đáy lòng rồi bật ra những rung cảm cùng với những cảm xúc mà trong đó có một chút xót xa, một chút nuối tiếc, một chút ngậm ngùi chua chát… và những cảm xúc đó trộn lại biến thành những nỗi đau của chính mình để ta có thể thấu hiểu được nỗi đau của tác giả đã trải vào trong thơ.
 
MEN ĐẮNG
 
Đây men rượu hơn 15 năm trước
Chót nhấp môi ta trượt bước xuống bùn
Ngoái đầu nhìn vẫn hồn lạc chân run
Thon thót sợ vô tình gặp lại.
 
Ừ ly nữa. Cớ chi phải ngại
Ta cứ say. Mặc thiên hạ phỉnh lừa
Cạn ly này có quên được chuyện xưa?
Đau thương đấy đến ngày nào lành sẹo?
 
 
Ừ thì cứ trách ta bạc bẽo
Cứ rêu rao ta ân ái hững hờ
Quá thật thà ta ra kẻ ngu ngơ
Ngớ ngẩn cược đời mình nơi kẻ chợ.
 
Đau. Đau lắm. Lặn ngược dòng lệ rỏ
Trời cao xa dung dưỡng lũ yêu hồ
Cố vẫy vùng thoát xa khỏi chốn nhơ
Ta chết lặng nửa đời không phân tỏ.
 
Ừ ly nữa
Ừ thêm ly nữa
Ừ thì say! Ừ quên quãng sống thừa
Quên bóng tà lẩn khuất phía song thưa
Ta cạn chén đón bình minh trước cửa.
 
           Hà Nội, đêm 10 tháng 12.2016
 

VỀ MỘT TRUYỆN NGẮN VỪA ĐOẠT GIẢI NHÌ CỦA BÁO VĂN NGHỆ (PHẦN III) - Hà Thanh Vân

Bài viết này nhằm để trả lời một số câu hỏi mà bạn bè ngoài giới văn chương hỏi tôi.
 

NHÀ VĂN KHÔNG ĐƠN ĐỘC MÀ NHÀ PHÊ BÌNH MỚI ĐƠN ĐỘC
 
Tôi không muốn viết tiếp để phản biện lại những vấn đề do một bài viết ẩn danh được cho là của nhà văn Uông Triều, mà tôi đã kiểm tra và có kết quả là bài viết đấy do AI viết. Chẳng lẽ tôi lại mất công phản biện với… trí tuệ nhân tạo?
 
Tuy nhiên, cái dở, yếu, kém của truyện ngắn “Trăm Ngàn” vẫn còn đó, rành rành ở những câu chữ. Do vậy tôi vẫn tiếp tục nói về truyện ngắn này ở phương diện nội dung và nghệ thuật cũng như cách độc giả tiếp nhận tác phẩm này. Tôi cũng không nói về tác giả trên phương diện cá nhân. Đối với tôi, điều quan trọng đối với người viết văn chính là tác phẩm. Tác phẩm là “căn cước văn chương” của họ. Còn chuyện họ có tấm căn cước đó như thế nào, vì sao được tôn vinh, khen ngợi bằng những lời có cánh, được một vài nhà văn bênh vực thì đó là chuyện cá nhân riêng tư giữa họ với nhau. Tôi không để cho những yếu tố đó ảnh hưởng đến cách nhìn nhận về tác phẩm “Trăm Ngàn”.
 

TRĂM NGÀN CÂU CHỮ, TRĂM NGÀN CÁCH ĐỌC – Nguyên Hùng đăng lại từ bài viết của tác giả ẩn danh

Nguồn:
https://nguyenhungvabanbe.com/tram-ngan-cau-chu-tram-ngan-cach-doc

Thưa quý bạn đọc,
 
Sáng nay, website Văn chương TP. Hồ Chí Minh – diễn đàn chính thức của Hội Nhà văn TP.HCM – đã mở chuyên mục “Bàn tròn văn học”, nhằm mời bạn đọc cùng tham gia trao đổi học thuật xung quanh truyện ngắn Trăm Ngàn – tác phẩm vừa đoạt giải Nhì Cuộc thi truyện ngắn 2022–2024 của Tuần báo Văn nghệ.
 
Tuy nhiên, sau khi bài viết có tiêu đề “Trăm ngàn câu chữ – trăm ngàn cách đọc” được đăng tải như một tiếng nói phản biện đầu tiên, nhà văn Uông Triều cùng một số thành viên trên trang Facebook Cộng đồng Văn xuôi đã cho biết đây không phải là bài viết của nhà văn Uông Triều, mà do một bạn đọc gửi tới.
 
Dù đã cố gắng liên hệ và xác minh, chúng tôi vẫn không thể xác định được danh tính chính thức của tác giả bài viết. Vì vậy, với tinh thần minh bạch và nghiêm túc, chúng tôi quyết định gỡ bài viết này khỏi website Hội Nhà văn, do Bàn tròn văn học không thể đăng tải những phản biện ẩn danh.
 
Tuy nhiên, với tư cách cá nhân, tôi xin chuyển bài viết nói trên về trang web riêng Nguyên Hùng – Cánh buồm thao thức để bạn đọc có thể tham khảo thêm một tiếng nói (mà vì một lý do tế nhị nào đó không tiện xưng danh) trong cộng đồng văn chương.
 
Rất mong quý độc giả thông cảm và tiếp tục gửi bài viết, ý kiến phản biện hoặc góc nhìn học thuật liên quan đến truyện ngắn Trăm Ngàn cũng như các vấn đề văn học khác về địa chỉ email: khoa7073@gmail.com. Chúng tôi sẽ ưu tiên chọn đăng trên Văn chương TP. Hồ Chí Minh những bài viết có tinh thần xây dựng, tên tuổi rõ ràng và có giá trị học thuật.
 
Trân trọng!
                                   TM Ban Biên tập Văn chương TP. Hồ Chí Minh
                                                              Nguyên Hùng

THƠ TÔI NHƯ THẾ ĐÓ CHẲNG AI CẦM LÊN HÔN – Trần Vấn Lệ



Chim vô tư?  Tôi tin là không có!  Ngay cả loài chim nhỏ, chúng sống đều có đôi, bầy, đàn chim, hót thật vui / thường là những ban sáng hay trước ngày hoàng hôn...
 
Có khi chim cũng buồn.  Thật buồn, nếu có con lẻ bạn:  nó im lìm dưới nắng, không bay cả khi mưa... Nó kêu nhỏ mà thưa. Nó cứ nhìn gì đó... chắc không phải thảm cỏ cũng chắc không là lùm cây...
 
Chắc chỉ tôi, không ai, buồn nhìn chim... tỉ mỉ?  Rồi... thốt những gì lí nhí, viết vài hàng câu thơ!  Tôi sống như trong mơ!  Tôi chết, sao, không biết!  Ba tiếng Chào Vĩnh Biệt, chim không nói, tôi im!
 
*
Xuân Diệu đã buồn tênh, có một chiều cao vút!  Xuân Điệu chắc lau mắt thốt não nùng chiêm bao:  "Chiều nay giời nhẹ lên cao, tôi buồn đếch hiểu vì sao tôi buồn!".  Xuân Diệu không Quê Hương!  Xuân Diệu đi giết người, coi đấu tố làm vui... và thở dài não nuột!
 
Nước ta từ Bắc Thuộc rồi Tây Thuộc... rồi Cộng Thuộc, dân vẫn không... thuộc bài.  Tôi đây - nói chi ai!  Vũ Hoàng Chương khóc ngất:  "Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa, bị Quê Hương ruồng bỏ, Giống Nòi khinh!". 
 
Tôi hết bạn, còn chim, còn chút vườn mấy góc... Có khi buồn, muốn khóc.  Buồn!  Biết buồn vì sao bởi Trần Huyền Trân thì thào: "Xa nhau gió ít lạnh nhiều, lửa khuya tàn chậm mưa chiều đổ nhanh!".
 
Quanh quanh tôi, bên tôi, buồn ơi thành phố nhỏ!  Thơ tôi như thế đó, chẳng ai cầm lên hôn!
                                                                                        Trần Vấn Lệ

NHẮM RƯỢU VỚI “CƯỠNG XUÂN”, THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN – Nguyễn Thanh Lâm


Tác giả Nguyễn Thanh Lâm

Tôi có thói quen mỗi lần đọc thơ, khi gặp một câu hay, ý lạ thường tự thưởng cho mình một ly rượu - thắp lửa ở lòng mình, thả hồn lang thang trên ngọn nguồn, bến bờ say của câu chữ. Và hôm nay đọc tập: Cưỡng Xuân của Đặng Xuân Xuyến, không cưỡng nổi lòng mình, không thể hoãn cái sự sướng, tôi nhắm rượu với thơ.

“HẠT U MINH”, TẬP TRUYỆN CỦA TRẦN KIÊM TRINH TIÊN – Trần Kiêm Đoàn



Xem tập truyện Hạt U Minh, người đọc hình dung nhân gian đâu đó mang tràng hạt u minh – u u, minh minh; mù mù mịt mịt, sáng lòa sáng tỏa – như một chuỗi duyên duyên nghiệp nghiệp tương tác trùng trùng trong dòng đời nghiệt ngã và cô đơn nhưng cũng lắm nẻo đi về thanh thỏa và giải thoát tùy bước đi và hướng tới mà người thiện tâm, quý chữ thường gọi là… tu.
 
Tác giả là Trần Kiêm Trinh Tiên, một khuê nữ xứ Huế thuộc thế hệ Chiến tranh Việt Nam. Biểu tượng khuê nữ trong văn chương nhà Huế hơi khác với khái niệm đời thường. Đó là chỉ dấu hình ảnh “dễ thương dễ sợ” trong văn phong đượm chất thơ, trong suy tư không vướng mùi tục lụy và khổ đau hay hạnh phúc đều chỉ là phương tiện của hoàn cảnh cùng số phận trước mắt trong nẻo về miên viễn.

NHỚ LÒ MỲ VẠN HOA PHƯỜNG ĐỆ NHẤT THÀNH PHỐ QUẢNG TRỊ XƯA – Đinh Hoa Lư



BẠN PHƯỜNG ĐỆ NHẤT THỊ XÃ QUẢNG TRỊ CHẮC CÒN NHỚ LÒ MỲ VẠN HOA CỦA BÁC NGUYỄN VĂN VỊ
 
Phần trích đoạn
 
 Thị Xã QT 1968
 
Trước mặt tiệm ăn Tàu Việt có tên Thanh Thanh là con hẻm vào Lò Mì Vạn Hoa, người chủ là bác Nguyễn Vị. Bác  mấy nhiệm kỳ được dân trong Phường luôn bầu làm trưởng phường Đệ Nhất này. Người viết nhớ nhiều về con hẻm do nhà dì Võ thị Liễu người viết trú ngụ trong hẻm nói trên. Dì tôi là vợ của dượng Nguyễn văn Ngọ hay là em dâu của bác Vị. Sau vụ Mậu Thân 1968, mẹ tôi cùng các em lên đây ở chung với nhà dì tôi cùng làm ăn buôn bán.
 

NHỚ AI - Thơ Nhã My, nhạc Tố Mai

         
      


NHỚ AI
 
Nhớ ai vàng phố tím người
Nhớ ai sợi nắng cuối trời buồn hiu
Nhớ ai thả mái tóc chiều
Bay trong gió lạnh ít nhiều luyến lưu
Nhớ ai cuối nẻo sương mù
Bóng theo ảo ảnh phù du cuộc tình
Nhớ ai ai có nhớ mình
Nụ hồng còn đó nguyên trinh khép hồn
Gió về thổi lạnh hoàng hôn
Thổi không bay nỗi bồn chồn tương tư
 
                                                 Nhã My

VỀ MỘT TRUYỆN NGẮN VỪA ĐOẠT GIẢI NHÌ CỦA BÁO VĂN NGHỆ (PHẦN I VÀ PHẦN II) - Hà Thanh Vân

Bài viết sau đây là quan điểm của cá nhân tôi. Tôi không nhân danh cho ai hay cơ quan, tổ chức nào để viết. Tôi tôn trọng mọi ý kiến trái chiều và không có ý định tranh luận lại.
                                                                                   Hà Thanh Vân
 

“CÁI GÌ ĐÂY KỲ NÀY”: VỀ MỘT TRUYỆN NGẮN VỪA ĐOẠT GIẢI NHÌ CỦA BÁO VĂN NGHỆ (PHẦN 1)
 
Sau thành công của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, người – mà - ai – cũng - biết - là - ai - đấy (nói vui kiểu Harry Potter chút), có hẳn một “trào lưu” viết theo kiểu của chị Tư. Tất nhiên là cũng có những tác giả thành công, song theo đánh giá của cá nhân tôi, chưa ai vượt qua được Nguyễn Ngọc Tư, thậm chí còn xa mới theo kịp. Còn những phiên bản lỗi, hỡi ơi, thì lại có cũng khá nhiều.

Vừa rồi báo Văn nghệ mới công bố giải thưởng Cuộc thi truyện ngắn 2022 – 2024, tôi bèn ngồi đọc thêm và đọc lại những truyện ngắn có giải. Để minh chứng cho một phiên bản lỗi khi viết về miền Tây Nam Bộ theo kiểu Nguyễn Ngọc Tư, thì trong những tác phẩm đoạt giải có ngay một truyện ngắn hết sức là tiêu biểu. Đó là truyện ngắn “Trăm Ngàn” của tác giả Ngô Tú Ngân. Truyện ngắn này được giải nhì (không có giải nhất) của báo Văn nghệ.

Tôi tạm gọi đây là “cái được gọi là truyện ngắn” vì những lý do sau:
NGÔN TỪ KIỂU LẨU THẬP CẨM QUÁ MỨC PHA TRỘN NAM BẮC DÙ BỐI CẢNH LÀ MIỀN TÂY

Ngay từ khi đọc đoạn mở đầu tác phẩm, tôi đã thở dài buồn bã. Tôi buồn vì tôi quá đơn độc giữa cả một biển người đọc truyện này, mà sao không ai phát hiện những lỗi cơ bản nhất:

- Đoạn mở đầu: “Hồi mày còn chưa vào đoàn, tao đã đặt tên cho nó mà nó không chịu, nó nói cứ gọi nó như thế, biết đâu cũng là cái duyên nó tìm lại được mẹ. Bộ mày không thấy hễ tới xóm nào là nó đi rảo từ sáng đến chiều để hỏi thăm, tìm kiếm sao. Tìm từ lúc tóc xanh, giờ tóc nó cũng bạc mà mẹ nó vẫn bặt tăm chim cá.”

Miền Tây thì gọi là “má”, không gọi “mẹ”, nhất là bối cảnh của truyện ngắn này không phải là thời đương đại mà lý giải là giao thoa ngôn ngữ vùng miền. Nhưng đến đoạn sau lại chuyển thành “tía má”. Lẩu thập cẩm còn phải chào thua!

- “Bặt tăm chim cá” là cái gì thế? Theo “Từ điển Thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt”, vốn gốc câu thành ngữ là “bóng chim tăm cá” sau dần thành câu “bặt chim tăm cá”. Nhưng mà thôi, cứ coi như đây là sáng tạo của người viết!
- Cụm từ “nó nói cứ gọi nó như thế” là từ miền Bắc rặt nha. Người miền Tây sẽ là: “Nó biểu cứ kêu nó như vầy”!
- Nên đổi cụm từ “giờ tóc nó cũng bạc” thành “giờ tóc nó đã trắng” thì hợp lý hơn.

Thứ Bảy, 19 tháng 7, 2025

NHÀ TÔI – Thơ Yên Thao

Yên Thao (sinh 1927) là một nhà thơ, nhà báo người Việt Nam. Ông được biết từ thời Chiến tranh Đông Dương, với nhiều bài thơ mang chất lãng mạn chiến tranh, nổi bật nhất là bài Nhà tôi, được nhạc sĩ Anh Bằng phổ nhạc với tên "Chuyện giàn thiên lý". Ngoài ra, ông còn có các bút danh khác như Nguyễn Bảo, Cử Yên, Lang Bang, Thái Dương

   

Tôi đứng bên này sông
Bên kia vùng địch đóng
Làng tôi đấy xạm đen màu tiết đọng
Tre cau buồn tóc rũ ướt mơ sương
Màu trăng vôi lồm lộp mấy khung tường
Nếp đình xưa người hỡi đau gì không?
 
Tôi là anh lính chiến
Rời quê hương từ dạo máu khơi dòng
Buông tay gầu vui lại thuở bình Mông
Ghì nấc súng nhớ ơi ngày chiến thắng
Chân chưa vẹt trên nẻo đường vạn dặm
Áo nào phai không sót chút màu xưa
 
Đêm hôm nay tôi trở về lành lạnh
Sông sâu buồn lấp lánh sao lưa thưa
Tôi có người vợ trẻ đẹp như thơ
Tuổi chớm đôi mươì cưới buổi dâng cờ
Má trắng mịn thơm thơm mùa lúa chín
 
Ai đã qua mà chẳng từng bịn rịn
Rời yêu thương nào đã mấy ai vui?
Em lặng buồn nhìn với lúc chia phôi
Tôi mạnh bước mà nghe hồn nhỏ lệ
 
Tôi còn người mẹ
Tóc đã ngả màu bông
Tuổi già non thế kỷ
Lưng gầy uốn nặng kiếp long đong
Nắng mưa từ buổi tang chồng
Tơ tằm rút mãi cho lòng héo hon
 
Ôi xa rồi! Mẹ tôi
Lệ nhoà mi mắt trông con phương trời
Có từng chợt tỉnh đêm vơi
Nghe giòn tiếng súng nhắc lời chia ly:
Mẹ ơi! Con mẹ tìm đi
Bao giờ hết giặc con về mẹ vui
 
Đêm nay trời lành lạnh
Sông sâu mừng lấp lánh sao lưa thưa
Ống quần nâu đã vá mụn giang hồ
Chắc tay súng tôi mơ về Nguyễn Huệ
Làng tôi kia bên trại thù quạnh quẽ
Trông im lìm như một nắm mồ ma
Có còn không! Em hỡi mẹ tôi già?
Những người thân yêu khóc buổi tôi xa
 
Tôi là anh lính chiến
Theo quân về giải phóng quê hương
Mái đầu xanh bụi viễn phương
Bước chân đất đạp xiêu đồn luỹ địch
 
Này, anh đồng chí!
Người bạn pháo binh
Đã đến giờ chưa nhỉ?
Mà tôi nghe như trại giặc tan tành
 
Anh rót cho khéo nhé!
Không lại nhầm nhà tôi
Nhà tôi ở cuối thôn Đồi
Có giàn thiên lý
Có người tôi thương
 
                                    Yên Thao

Thứ Sáu, 18 tháng 7, 2025

CHỊ TÔI – Thơ Hồ Dzếnh

 
   

Ngày xưa còn nhỏ ngày xưa
Tôi đeo khánh bạc lên chùa dâng nhang
Lòng vui quần áo xênh xang
Tay cầm hương nến đình vàng mới mua
Chị tôi vào lễ trong chùa
Hai chàng trai trẻ khấn đùa hai bên
“Lòng thành lễ vật đầu niên
Cầu cho tiểu được ngoài Giêng đắt chồng”
Chị tôi hai má đỏ hồng
Vùng vằng suýt nữa quên bồng cả tôi
Tam quan mái ngói chị ngồi
Chị nghe đoán quẻ chị cười luôn luôn
Quẻ Thần mắt thánh mà khôn
Số này chồng đắt mà con cũng nhiều
Chị tôi nay đã xế chiều
Chắc còn nhớ mãi những điều chị mơ
Hằng năm tôi đi lễ chùa
Chuông vàng khánh ngọc ngày xưa vẫn còn
Chị ơi thấy vắng trong hồn
Ít nhiều hương phấn khi còn thơ ngây
Chân đi đếm tiếng chuông chùa
Tôi ngờ năm tháng ngày xưa trở về.
 
                                        Hồ Dzếnh

Theo Trong từng câu chữ

ÔNG HOÀNG PHẾ LIỆU - Truyện ngắn của Trần Duệ


                 

Chiếc xe tải gầm rú, thở phì phò như trâu kéo gỗ nhưng chẳng làm ai chú ý, bởi họ đã quá quen với cái âm thanh quái lạ này. Chiếc xe tải đã bong tróc, rỉ sét, nhiều mối hàn và đủ các loại ốc vít, nhưng hầu như tất cả mọi sự gá lắp đều lỏng lẻo, khiến mỗi dao động đều tạo ra những âm thanh ồn ào tới mức người ngồi trên xe muốn nói chuyện với nhau phải quát lên như cãi vã.
Người ta gọi chủ xe là ông Hoàng phế liệu.

CHIỀU RƠI, THOI THÓP TRÊN VÀI LUỐNG KHOAI! – Phạm Hiền Mây



I. PHẠM DUY, PHẢI YÊU NƯỚC ĐẾN THẾ NÀO THÌ MỚI LÀM ĐƯỢC NHẠC NHƯ VẬY

Trong một chuyến đi chơi xa với nhà thơ Lê Đạt và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, bà Thụy Khuê, nhà lý luận phê bình văn học Việt Nam, định cư tại Pháp, kể lại: Trong xe, tôi để cassette nhạc kháng chiến của Phạm Duy, không nhớ rõ là khi nghe đến bài nào, Quê Nghèo, Bà Mẹ Gio Linh, hay Về Miền Trung, Lê Đạt buột miệng, phải yêu nước như “nó” mới làm được nhạc như thế. Còn Nguyễn Huy Thiệp thì bảo, nghe nổi cả da gà.
Câu chuyện chỉ có như thế thôi nhưng khi đọc, tôi rất thích. Thích, vì cái cách mà họ (Thụy Khuê, Lê Đạt, Nguyễn Huy Thiệp) nói, nó hạp bụng tôi, hạp với suy nghĩ của tôi.

Thứ Năm, 17 tháng 7, 2025

BÀN VỀ TÂY SƠN, NGUYỄN ÁNH: CHUYỆN ĐỜI VAY TRẢ - Võ Hương An

Nguồn:
https://nghiencuulichsu.com/2014/10/02/ban-ve-tay-son-nguyen-anh-chuyen-doi-vay-tra/

 

Lời tác giả (cụ Võ Hương An):
 
“Mùa Vu lan năm Canh dần 2010, tự nhiên tôi nhận được nhiều email của thân hữu gởi đến - có ngày nhận hai ba cái -- kèm theo truyện ngắn “Một ngày lễ Vu lan sầu thảm” của Tịnh Thuỷ, viết về sự tàn ác và hèn hạ của vua Gia Long trong việc hành hình vợ chồng Trần Quang Diệu & Bùi Thị Xuân -- hai dũng tướng của Tây Sơn -- và gia đình (mẹ già và con gái). Nội dung của các điện thư hoặc có ý hỏi tôi sự thật có đúng như vậy không, hoặc tỏ ra đồng ý với tác giả, chê trách vua Gia Long tàn ác. Bài viết này xin xem như một câu trả lời, sự thật lịch sử là một kinh nghiệm chung ở đời…”
 
ĐÔI NÉT LỊCH SỬ
 
Sau 25 năm chiến đấu kiên trì và gian khổ, ngày mồng 3 tháng 5 năm Tân Dậu (13/6/1801) Nguyễn Vương (vua Gia Long) tái chiếm kinh đô cũ Phú Xuân, đuổi vua tôi Cảnh Thịnh chạy dài ra Bắc. Một năm sau, ngày mồng 2 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1/6/1802), tuy chưa chính thức lên ngôi hoàng đế (1) nhưng theo lời đề nghị của bầy tôi, vua ban hành niên hiệu Gia Long, mở ra một triều đại mới của nhà Nguyễn. Vào đầu thế kỷ XX, vua Khải Định đã chọn ngày này (mồng 2 tháng Năm âm lịch) làm ngày quốc khánh của nước Đại Nam, đặt tên là ngày Hưng quốc khánh niệm. Những ai ở lứa tuổi trên 70 ở Trung kỳ, từng cắp sách đến trường có thể còn nhớ đôi chút về ngày này, nhất là ở Huế. Đó là ngày mừng đất nước thống nhất. Niên hiệu Gia Long bao hàm trong ý nghĩa đó -- vua muốn nói ông là người đã đi từ Gia Định thành tới Thăng Long thành để thống nhất đất nước.
(Võ Hương-An, Thăng Long và Gia Long, 
www.khoahoc.net/baivo/vohuongan/310708-thanglongvagialong.htm)
 
Ngay sau khi chiếm lại Phú Xuân và trong khi vua Cảnh Thịnh của Tây Sơn đang còn làm chủ ở miền Bắc thì Nguyễn Vương đã cho «Phá hủy mộ giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ, bổ săng, phơi thây, bêu đầu ở chợ » (Thực lục I, tr.473).
 

Thứ Tư, 16 tháng 7, 2025

VÀI GIAI THOẠI VỀ NHÀ THƠ NGUYỄN BẮC SƠN - Nguyễn Như Mây



Đêm hôm qua, tôi bị đánh thức 2 lần lúc nửa đêm vì bài viết của mình trước đó về vài kỷ niệm với nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn. Đó là các anh Lâm Hùng và anh Trần Kế, bạn thân của nhà thơ, hiện đang dưỡng già ở Mỹ, cũng là những người từng yêu mến thơ anh khi còn ở chiến trường; thậm chí họ còn mang theo trong ba lô đi hành quân của mình tập thơ “Chiến tranh Việt Nam và tôi” của anh Nguyễn Bắc Sơn - tôi chưa hề gặp hay quen các anh ấy. Anh Hùng nói to trong điện thoại:
 
- Chú tính “ôm hết một mình chú chuyện Nguyễn Bắc Sơn” xuống dưới” sao ? Kể ra đi chớ !..
   
Thật ra, tôi sợ mang tiếng “bắt quàng làm họ” nên nay đã “cổ lai hy” rồi, kể lại câu được câu mất cho vui; với lại bây giờ thì tôi là “trâu già chẳng sợ dao phay” nữa ! Mong quí anh chị bỏ qua cho nếu tôi viết có thiếu sót hay bị sai sót.
  
Một hôm, có người bạn anh Nguyễn Bắc Sơn ghé nhà  “căn vặn” tôi có biết tại sao “Sơn trốn lính mấy năm rồi đột nhiên đi lính không ?” làm tôi như chợt nhớ ra - không biết có đúng chăng vì mình bây giờ già rồi, trí nhớ không thể chính xác:
 

Thứ Ba, 15 tháng 7, 2025

HAI VẦNG THÁI DƯƠNG MỘT NHAN SẮC - Trần Vấn Lệ



Nâng mặt em buổi sáng:  Anh có hai mặt trời, hai bình minh một đôi... mà một em hoa nở!
 
Em à, em hơi thở kết tụ thành mây bay...Mây bay về hướng Tây qua đại dương bát ngát...
 
Mặt trời cũng biết hát:  ca ngợi em từng li...từ bàn tay xinh ghê của biển trời thủy mặc...
 
Hai vai em thơm ngát tóc thề em dễ thương.  Hình như em là hương.  Hương thời gian Thế Kỷ!
 
Anh hiểu lòng yêu quý là không bến không bờ... là dòng trôi của thơ, là tâm tình của nhạc...
 
Anh nhớ em tiếng hát / bài Tình Xa Tình Xa... Khi không nhỉ hôm qua là hôm nay mãi mãi...
 
Em là người con gái đẹp hơn Dương Quý Phi... Lý Bạch đã nói gì trong cổ thi em biết...
 
"Vân tưởng y thường hoa tưởng dung Xuân phong phất hạm lộ hương nồng..."(*).  Ôi em!  Chiếc cầu vồng thời Thái Bình Thập Điệu!
 
Anh... ăn gian, ai biểu:  Em Người Yêu Anh Yêu!
                                                                                    Trần Vấn Lệ

(*) Thơ Lý Bạch ca tụng Dương Quý Phi trong một bài rất dài, Thái Bình Thập Điệu!

LÝ CHIÊU HOÀNG GÓC KHUẤT BI KỊCH CỦA MỘT NỮ HOÀNG ĐẾ - Dũng Phan

              (Viết cho những ai yêu quý và thương cảm cho bà)
 

Đại thi hào Nguyễn Du từng viết:

"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung."
 
Trước tới nay, thân phận người phụ nữ phong kiến với bao đắng cay và tủi nhục đều được miêu tả trong văn học, qua hình ảnh Thúy Kiều hoặc "Người con gái Nam Xương". Đó là chuyện về những nữ nhân tài danh nhưng sống dưới lễ giáo phong kiến khắt khe, cổ hủ, với quan niệm "Tam tòng, tứ đức" như sợi dây trói buộc cả cuộc đời, gây ra bất hạnh cho người phụ nữ. Nhưng hôm nay tôi sẽ kể cho bạn, bên cạnh những hình tượng văn học hư cấu, còn có một câu chuyện thật trong lịch sử Việt Nam về bi kịch nguời phụ nữ thời phong kiến. Và oái ăm thay, lại gán đúng vào một nữ hoàng đế đứng đầu cả thiên hạ. Người nữ hoàng đế này thay vì hô mưa gọi gió, lại sống đời tủi nhục như là đồ chơi của những tranh đoạt: Lý Chiêu Hoàng.
 

ĐÃ CHẾT NGHÌN THU TIẾNG NGUYỆT CẦM - Tô Nhược Châu


   

Có phải người về theo gót gió
Xiêm y lồng lộng bến giang đầu
Trên sông có bóng trăng vàng rụng
Lãng đãng nguyệt cầm ngân tiếng thu.
 
Ta đứng trên đồi mây viễn xứ
Thấy hồn chết đuối giữa rừng hoa
Bỗng nghe có tiếng loài chim lạ
Thoáng buồn như tiếng Hậu Đình xưa.
 
Bao năm rồi vắng người tri kỷ
Đàn lạnh lùng treo hề cô đơn
Người quá vô tình đâu có biết
Âm thầm ta đợi mấy mùa trăng.
 
Mùa hoa rụng giữa hồn hoang phế
Cơn mộng cũng vừa thoát cánh bay
Chén rượu trăm năm hề chưa cạn
Cuộc tình điên đảo một cơn say.
 
Trên bến giang đầu trăng bỗng chết
Nguyệt cầm im tiếng đến ngàn sau
Xiêm y đã khuất trời nhan sắc
Ta đứng chờ ai tóc bạc màu.
 
                            Tô Nhược Châu

Thứ Hai, 14 tháng 7, 2025

ĐỂ NHÌN NHANG LƯU LUYẾN HƯƠNG NGAN NGÁT MÙA ĐI - Trần Vấn Lệ


Nhà thơ Trần Vấn Lệ duyên vẽ theo yêu cầu của Nguyệt Mai

Tôi vẫn thường hay ra / công viên, ngồi chỗ đó - parking, xe tôi đậu / đang mùa Thu, lá rơi...
 
Lá rơi vài ngày thôi / thì không có gì cả... bởi vì cây hết lá / chờ mùa Xuân, năm sau!
 
Chuyện, không chút nghẹn ngào / mà thơ buồn, ai biểu!  Có chút gì thiêu thiếu / trong mắt người, hay sao?
 
Không có ai chiêm bao / giữa ban ngày đâu nhỉ?  Một câu nói thâm thúy / hay chỉ buột miệng than?
 
Nguyễn Du không hoang mang / khi làm thơ Lục Bát.  Buồn của thơ bát ngát / thấy được ở hai câu:
 
"Người lên ngựa, kẻ chia bào, rừng phong Thu nhuốm một màu quan san...".
 
Tôi... ngỡ ngàng... thấy thời gian đứng lại.  Sắc ngựa chiều quan tái, cỏ cây màu Thiên Thu!
 
Đây không cây mù u / để trái rơi, tôi nhặt... từng chút buồn se sắt... mùa Thu mùa Thu sa...
 
Đây không chỗ giang hà.
Chỉ parking xe đậu.
Có buổi chiều ai giấu... tôi nhớ về Quê Hương?
 
*
Thơ tôi quá tầm thường / khi nói hoài nói mãi... tình của thời trai gái / trang trải tờ Hoa Tiên!
 
Tờ giấy viết chuyện quên / mà tôi không viết thế... Đâu có ai để kể... chuyện chiêm bao ban ngày?
 
Vài chiếc lá trên cây, gió bay rồi rụng hết.  Mùa Đông không vĩnh biệt.  Mùa Đông sẽ trở về...
 
Tóc thề là tóc thề.  Không có Đình ghé nguyện... để nhìn nhang lưu luyến / hương ngan ngát mùa đi... (*)
 
                                                                                       Trần Vấn Lệ

(*) "Đáy dĩa mùa đi nhịp hải hà...", Thơ Đoàn Phú Tứ, bài Màu Thời Gian.

NGUYỄN BÍNH CƯỚI BỐN ĐỜI VỢ NHƯNG KHI CHẾT LẠI "TỨ CỐ VÔ THÂN" - Mê Đọc Sách



Trong cuộc đời truân chuyên lang bạt từ bắc chí nam của mình, Nguyễn Bính đã có 4 người vợ và 4 người con. Nhưng khi ông qua đời vào ngày cuối năm thì không có người thân nào bên cạnh.

Người vợ đầu là bà Nguyễn Hồng Châu, là mối tình sét đánh của Nguyễn Bính trên đường ông đi công tác ở miền Tây. Ngay từ lần gặp đầu tiên, Nguyễn Bính đã sững sờ, choáng váng trước vẻ đẹp của bà và đem lòng yêu. Họ có với nhau một người con gái đặt tên là Nguyễn Bính Hồng Cầu.

TÌNH NHẠC SĨ - Thơ Quách Như Nguyệt, nhạc Đỗ Hải, Thảo Quyên trình bày



                

CHO NGÀY TINH KHÔI, MỘNG SEN – Thơ Tịnh Bình

                    
    

CHO NGÀY TINH KHÔI
 
Sớm mai thả gió về trời
Gửi theo mây trắng nụ cười vô ưu
Trái tim thoát khỏi ngục tù
Không sân giận với oán thù sầu thương
 
Sớm mai gửi một nhành sương
Trong veo giọt lệ vô thường tử sinh
Lặng yên trước ánh bình minh
Buồn vui tan hợp chỉ mình mình hay
 
Đường trời gửi cánh chim bay
Nắng hồng ai thắp qua ngày bão giông
Đường trần sắc sắc không không
Có không cũng bởi tại lòng chấp vương
 
Giọt từ chan rải mười phương
Sen miền tịnh độ cúng dường Như Lai
Dọn lòng trước những sớm mai
Nguyện mong trọn vẹn một ngày tinh khôi...
 

Chủ Nhật, 13 tháng 7, 2025

GỌI “NỮ GIỚI”, KHÔNG GỌI “PHỤ NỮ” - Matthew NChuong

 
Hình tờ báo Nữ giới chung; riêng hình cô gái bên trái là hình minh họa phái nữ, không phải cô Sương Nguyệt Anh.

Báo "NỮ GIỚI CHUNG" gọi "NỮ GIỚI", không gọi "Phụ nữ".
 
/1/ Hồi năm 1918, cô Nguyễn thị Ngọc Khuê (thân phụ là nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu), bút danh "Sương Nguyệt Anh" (孀月英) làm chủ bút cho tờ "Nữ giới chung" (女界鐘). Đây là tờ báo ĐẦU TIÊN dành cho nữ giới, ấn hành tại Sài Gòn!
"Chung"  nghĩa là chuông, tiếng chuông.