Thiên Thành Công chúa (1235 – 1288), được tôn hiệu là
Nguyên Từ Quốc Mẫu, là một nhân vật lịch sử quan trọng thời nhà Trần, được biết
đến với vai trò là phu nhân của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn.
Thân thế của Thiên Thành Công chúa được ghi chép trong
sử sách với hai luồng ý kiến:
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (ĐVSKTT), việc bà được gọi
là Trưởng công chúa trong đoạn "Gả
Thiên Thành Trưởng công chúa cho Trung Thành vương", cho thấy bà là chị
em gái của Hoàng đế đương nhiệm (Trần Thái Tông), tức là con gái của Thượng
hoàng Trần Thái Tổ (Trần Thừa).
Một số nguồn khác căn cứ vào độ tuổi có thể suy luận
bà là con gái Trần Thái Tông, vì Thái Tổ Trần Thừa mất vào năm 1234, trong khi
đó Thụy Bà cũng được gọi là trưởng công chúa thì Thiên Thành phải là út công chúa.
Dù ở vai vế nào, bà là người sinh ra và lớn lên với
thân thế cao quý, được giáo dục đầy đủ để trở thành một phụ nữ nhân từ, tài
hoa, mẫu mực.
Sự kiện kết hôn của Thiên Thành Công chúa là một trong
những chi tiết gây chú ý nhất trong sử nhà Trần:
ĐVSKTT ghi rõ:
Vào
đầu năm Nguyên Phong thứ nhất (1251), Trần Thái Tông ban đầu định gả bà cho
Trung Thành vương (con trai Nhân Đạo vương).
Tuy
nhiên, hôn nhân này bị thay đổi đột ngột. Trần Quốc Tuấn đã liều lĩnh cướp dâu.
Bà cuối cùng đã kết duyên với Trần Quốc Tuấn (sau này là Hưng Đạo Đại vương). Sự
việc đã gây ra một sự xáo trộn lớn đến mức triều đình phải đền bù thỏa đáng. Mẹ
nuôi của Trần Quốc Tuấn là Thụy Bà Công chúa phải dâng 10 mâm vàng sống để tạ lỗi.
Thái Tông cũng phải đem 2000 mẫu ruộng ở phủ Ứng Thiên để đền sính vật cho
Trung Thành vương.
Từ đó, bà rời chốn hoàng cung hoa lệ, cùng phu quân lo
việc nước, việc nhà.
Vai trò của Thiên Thành Công chúa thực sự tỏa sáng
trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược (lần 2 năm 1285 và lần
3 năm 1288). Bà được vua Trần tin tưởng giao nhiệm vụ Tổng quản quân lương - một
vị trí tối quan trọng, quyết định sức mạnh chiến đấu lâu dài của quân đội.
Vượt qua thân phận "cành
vàng lá ngọc" bà trực tiếp phụ trách hậu phương, chỉ huy tổ chức sản
xuất, chăn nuôi, trồng cấy (dẫn đến các tên gọi còn lại như Hố Thóc, Hố Lợn ở
vùng Kiếp Bạc). Bà cũng là người hướng dẫn, vận động các gia đình quý tộc và
nhân dân thực hiện triệt để kế "Thanh
dã" (vườn không, nhà trống) để tiêu hao sinh lực địch.
Dưới sự quản lý của bà, khu vực Vạn Kiếp (thuộc Hải
Dương ngày nay) trở thành căn cứ hậu cần chiến lược, nơi tích trữ lương thảo khổng
lồ, được phòng bố và vận chuyển theo địa thế núi, rừng, sông ngòi hiểm yếu.
Thời ấy, cả vùng rộng lớn Kiếp Bạc, làng Bến, Thanh
Tân, Thanh Tảo, Trung Quê, Đa Cốc, Bãi Thảo, núi Huyền Đinh... đều là căn cứ hậu
cần đặc biệt quan trọng của phòng tuyến Vạn Kiếp.
Những đóng góp này đảm bảo cho quân đội nhà Trần có đủ
nguồn lực để tiến hành chiến tranh du kích và phản công, góp phần không nhỏ vào
đại thắng cuối cùng.
Sau khi đất nước hoàn toàn thái bình, vào mùa thu năm
1288, Thiên Thành Công chúa qua đời. Nhân dân và triều đình vô cùng tiếc
thương, vua sắc phong tước hiệu “Nguyên Từ
Quốc Mẫu, Thiên Thành Thái trưởng công chúa” và cho phép tạc tượng phụng thờ.
Hiện tại, bà được thờ tại đền Kiếp Bạc (Hải Dương) bên cạnh Hưng Đạo Đại vương
và tại Đền Dím (xã Lê Lợi, Chí Linh) - vốn là một trong những kho chứa quân
lương thời chiến.
Trong lịch sử dân tộc, Nguyên Từ Quốc Mẫu là biểu tượng
của người phụ nữ Việt Nam vừa có phẩm hạnh cao quý, vừa có tài năng quản lý xuất
sắc, đóng góp trực tiếp vào công cuộc cứu nước, được người đời sau ca tụng:
“Quốc
sắc khuynh thành thiên hạ hữu
Anh
linh liệt nữ thế gian vô”
Tạm dịch:
Người
phụ nữ sắc đẹp nghiêng thành thiên hạ từng có
Nhưng
người có công đức như thánh nữ thì không
Theo trang “Cội nguồn lịch sử và văn hoá”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét