Tác giả Linh Đàn
CHẠY
Mạ ơi chạy xuống hầm,
tai mạ điếc u ơ rồi quờ quạng,
Ngồi dưới hầm thấy lổm
nhổm rắn bò quanh,
Tiếng súng xa rồi tiếng
súng gần,
Kéo mạ lên vừa khỏi miệng
hầm thì pháo rớt ngay nóc nhà may thay không nổ,
Kéo mạ xuống hầm, rắn lại
phùng mang, cóc thì lố nhố, hét lên rồi kéo mạ chạy lên thôi,
Ngó ngoài sân có mấy
người bò la bò lết, vừa chạy vào ôm trẻ nhỏ khóc van.
Ngó sau vườn heo nhảy
chuồng chạy râm ran, mấy con lớn đã chạy ra ngoài ngõ,
Ra đón đầu kẻo sợ mất
heo, từng tia đạn từ cửa chùa bắn xuống
Rồi khiếp vía úp đầu
bên bờ ruộng, đạn bay vèo vèo, tre cũng gảy ngang lưng
Khiếp vía chạy vào nhà,
bò nó chạy lung tung, không người giữ bò ra ăn lúa vừa mới trổ
Nồi cơm nấu chưa sôi, đạn
xuyên qua hất đổ, nãi chuối trên bàn thờ vừa chín cũng văng luôn,
Rồi tiếng máy bay gầm
rú trên mái nhà, xe thiết giáp từng đoàn tuôn đến ngõ,
Pháo kích dập vùi đạn nổ
trên đọt mít, găm mảnh xuống hầm may người đã bò lên,
Tiếng xung phong hô dậy
sau vườn, đoàn quân tới mắt ngó liên ngó láo,
Trên mặt lính nhọ nồi
đen như than như mực, hàm răng trắng nhe ra thấy cũng kinh hồn,
Rồi phút chốc thấy nhà
bốc cháy, lửa ngất trời chạy ra núp bờ tre,
Ong vò vẽ vù vù bay tới,
đốt vào người như thể búa thiên lôi,
Kéo mạ qua bụi chuối
bên kia, thì kiến lửa phủi mấy rồi không hết,
Tiếng đạn bom mỗi lúc mỗi
gầm vang, người chết thảm ngả lăn trào máu đỏ
Thịt tóe đầy vườn,
xương văng cùng ngõ,
Bốn giờ liền trận chiến
cũng vừa tan, máy bay tải thương, lên xuống rộn ràng
Người kêu nhau thảm thiết,
gọi nhau về người chết mẹ kẻ mất cha,
Con cái gảy tay, vẫn
không băng bó, xé vạt áo cột vào thấy quá thảm thương,
Mấy trái chuối xanh còn
quá chát, vẫn cùng nhau ăn thế bữa chiều,
Rồi cơn mưa ấp xuống,
áp thấp 3 ngày nước lụt lại dâng lên,
Không còn cái để ăn,
không có nơi để ngủ.
Cảnh màn trời chiếu đất,
bỏ nhà không đất trống tản cư,
Kẻ lên Tân Tường, người
vô Quảng Trị
Ở cũng yên vừa được mấy
năm, cửa nhà tạm ổn.
Bỗng thình lình nổi ra
trận chiến Bảy hai, quân ào át tràn vô như thác đổ
Đại lộ kinh hoàng, người
chết giữa mặt đường, người bay đầu bên bờ ruộng
Hàng ngàn thây chất đống
chẳng ai chôn, diều tha quạ mổ
Người sống sót đem nhau
vô Huế, vượt Hải Vân vô Đà Nẵng tạm cư
Phần cứu tế lại nhờ vào
chính phủ, ở cùng nơi trại Mỹ bỏ hoang
Cấp cho tiền cho gạo
tháng ngày qua,
Nào Hắc kin, Non Nước,
Hòa khánh, Hòa Cường,
Cơm no đủ, có kẻ khai
gian kiểm kê ngoại sổ,
Ở Đà nẵng người đông
như kiến, ngồi chơi không mà vẫn có tiền có gạo như thường,
Gạo nội địa hột tròn
không chịu nhận, gạo hột dài Thái Lan phải cấp xuống ngay thôi,
Rồi theo chương trình
Khẩn Hoang Lập Ấp,
Bác sĩ Phan Quang Đán
phụ trách di dân
Rồi đem nhau đến Bình
Tuy, Động Đền, Láng Gòn
Ở nhà lá tạm cư chờ
ngày phân lô cấp đất,
Đất gia cư cấp cho ngàn
mét, quay mặt ra đường vừa mới mở tiện việc lưu thông
Rồi cấp cho cột cho kèo
cho tôn phi-rô lớp mái,
Rồi cấp cho tiền cho gạo,
gạo hột dài ngon quá là ngon
Rồi phân lô canh tác từng
khu, theo ấn định năm sào, không ai thừa ai thiếu.
Cũng tạm ổn mấy năm rồi
Giải Phóng, người về quê, kẻ đi nơi khác sinh nhai.
Nào Sông Ray, Hòa Hội,
Dầu Giây, nào Lang Minh, Bàu Lâm, Thị Vãi. Long Khánh Suối Tre
Bà Rịa, Vũng Tàu, Bà
Tô, Xuyên Mộc, Bông Trang, Phước Tân, Phước Bửu. Bàu Tràm, Bàu Cốc nơi nơi.
Cũng lắm người lên Nghị
Đức, Tánh Linh, TàPao, Bắc Ruộng
Lại có người ở Võ Đắc
,Võ Xu, Đồng Xoài, Bình Dương, Lộc Ninh, Sông Bé
Có nhiều người tuốt luốt
Tây Nguyên, Lâm Đồng, Đalạt, Di Linh, KonTum, Ban Mê Thuột.
Có nhiều người đem nhau
vô Vùng Bốn, Long An, Sóc Trăng, Đồng Tháp, đến Cẩn Thơ, Châu Đốc
Nay đã thành cơ nghiệp
khắp muôn phương
Rồi cũng có nhiều người
vượt cả trùng dương,
Nào Hoa Kỳ, Úc Châu,
hay Anh hay Pháp
Hay Nhật Bản, Hàn Quốc,
Đài Loan.
Bốn phương trời người
Quảng Trị Việt Nam
Nay ôn lại qua đoạn đường
máu lửa
Linh Đàn
(Saigòn
29-5-2018)
Có
một số địa danh rất nhiều người Quảng Trị sinh sống, nhưng quên kể như Suối Nghệ,
Ninh Thuận, Sông Pha, Quảng Biên, Bến Cát, sẽ bổ sung hoàn chỉnh tiếp để tổng kết lại một thiên cho hậu thế
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét