ĐẶC
TRƯNG TÍNH CÁCH CON NGƯỜI LA GI
Ở một
đô thị nhỏ như La Gi, quanh quẩn chỉ mấy con đường không khó để gặp mặt nhau
tình cờ rồi trở thành thân thiết. Con Sông Dinh từ tiền kiếp là một phần đời sống
thiên nhiên của thị xã này, nay khép nép giữa đôi bờ vườn cây xanh, những chòm
dừa luống tuổi rồi trườn mình ra đến biển. Đâu đó, bóng chiều phai nắng làm mơ
màng màu nước sông trôi để thức tiếng chim bìm bịp gọi cơn nước lên. Như một yếu
tố quyết định của người xưa khi tụ hội quần cư, mở đất lập nghiệp là dựa vào một
dòng sông để trên bến dưới thuyền và trải đất đón phù sa bồi đắp. Nghề biển
cũng thuận, làm nông cũng trù phú.
Đến
sau ngày có hiệp định đình chiến Genève 1954, thì làn sóng nhập cư của dân di
cư Nghệ An, rồi các thời kỳ sau này dân miền Quảng Nam, Quảng Ngãi và QuảngTrị
lần lượt vào theo chiến lược “dồn dân” của chính quyền Sài Gòn, sống bằng nghề
nông là chính. Trong quá trình phát triển nghề biển, xuất hiện mới từng nhóm
dân từ Bình Định đi theo họ hàng, nghề nghiệp.
Từ
những yếu tố cư dân tụ nghĩa như vậy cho nên địa phương La Gi rất khó tìm thấy
nét đặc trưng về diện mạo nhân văn ở đây. Bởi lẽ trong sâu xa của mỗi con người,
đặc biệt là người miền Trung dẫu tha phương từ thuở nhỏ, rồi sinh ra thế hệ con
cháu vẫn còn thấm đậm tính cách “đất lề quê thói” trong phong tục, phong ngữ và
thái độ ứng xử. Trong văn hóa thờ cúng, nghi lễ giỗ chạp, cưới hỏi, ma chay…tuy
có hòa nhập với thời đại một chút nhưng cũng lấy cái cốt cách, gia phong để làm
chuẩn mực, biểu thị lòng hiếu đễ, tôn kính.
Từ
năm 1955 đợt di cư gốc quê Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn, Thanh Dạ, Tân Yên (Nghệ Tĩnh)…
theo đạo Công giáo đến La Gi, ban đầu chỉ có 32 hộ, rồi từ các trại tạm cư ở
Sài Gòn nhanh chóng hình thành các xứ đạo
Vinh Thanh, Vinh Tân, Thanh Xuân, Tân Lập, Tân Tạo, Phước An. Làng biển Phước Lộc,
Tân Long với tỷ lệ dân quê Bình Định khá đông vẫn còn nặng cái giọng “nẫu” của
Phú Yên nghe cưng cứng nhưng lại thật thà, chân chất. Ở mỗi địa bàn đông dân cư
cùng quê mới cảm nhận được cái nét riêng trong sinh hoạt, giao tiếp đó cho thấy
một điều là thời gian không có ý nghĩa gì chi phối được phong cách tiềm ẩn
trong đời sống, tập quán của họ. Qua thời gian, từ sự pha trộn, hài hoà trong mối
quan hệ sinh hoạt xã hội đã làm nên đặc trưng cho người La Gi với giọng nói
mang một chút âm sắc miền Trung, một lơ lớ ngữ âm Nam bộ nên nghe chậm rãi, nhẹ
nhàng và truyền cảm. Nếu đem nhận xét của nhà thơ Xuân Diệu: “Giọng Thanh Hóa
là giọng miền Bắc phai đi/ Giọng Phan Thiết là giọng miền Nam sắp sửa” thì
không có sự tương đồng với người La Gi bởi ở đây là một vùng đất mới, đã hình
thành một diện mạo văn hóa khá phong phú phong phú và đa dạng.
Qua
giọng nói cũng có thể nhận ra tính khí con người đứng đầu sóng ngọn gió của
vùng miền.Dù trong nhà hay ngoài quán tiệm người vùng biển vẫn thoải mái nói
năng bởi cứ sợ người đối diện không kịp nghe do tiếng sóng gió ùa vào. Người
Nghệ Tĩnh sống ở nơi được coi là có một nền văn hóa thống nhất. Có thể khá đầy
đủ qua lời học giả Đặng Thai Mai: “Can đảm đến sơ xuất, cần cù đến liều lĩnh,
kiên quyết đến khô khan và tần tiện đến cá gỗ”. Từ đó họ mới có được phẩm chất
về ý chí, bản lĩnh, thẳng thắn và giàu lý tưởng. Có dịp ghé qua phường Phước Lộc
gần như người gốc Bình Định chiếm phần đông. Hỏi ra vùng biển Đề Gi ngoài quê
cũng có địa thế tương tự như ở đất này. Thừa hưởng khí phách anh hùng Tây Sơn-
Nguyễn Huệ, say mê nghệ thuật hát bội nên lễ hội cầu ngư, vía Bà hàng năm trở
thành ngày hội lớn của ngư dân vùng biển La Gi. Không lẫn đâu được, người Quảng
Trị ở xóm Gio Linh, Mũi Đá (Tân Phước) chỉ là một phần của cộng đồng cư dân Tân
Hà, Sơn Mỹ nhập cư ồ ạt từ năm 1972 và bất cứ cơ quan, doanh nghiệp nào ở địa
phương cũng có thể bắt gặp qua giọng nói còn nặng phong thổ của miền đất quanh
năm khô khốc, bão giông. Có lẽ vậy mà người Quảng Trị dù nay đến đời con, đời
cháu vẫn còn quen ăn cay, món kho đạm bạc, ưa tranh luận nhưng rất chịu nhẫn nhịn,
ai cũng phải nể phục về ý chí vượt khó, công danh bằng con đường học hành.
Thoáng qua, khó mà phân biệt đâu là giọng Quảng Ngãi với Quảng Nam. Nhưng trong
quan hệ thân tình sẽ dễ thấy ở người Núi Ấn- Sông Trà, lời nói “mía ngọt đường
nhiều”, không chịu thua ai, trọng hình thức, chi li, cơ cực vẫn lạc quan. Có một
phần gần với tính cách Quảng Nam là tinh thần hiếu học, đề cao lễ nghĩa và rất
sính thi ca. Đợi dịp là có ngay vài câu hoặc cả bài cất trong bụng dạ tự bao giờ
đem ra bộc bạch. Cho nên có người chọc vui: “Quảng Nam núi phủ mây mờ/ Kinh
doanh thì ít làm thơ thì nhiều”. Nói thế chứ không ít người thành đạt, giàu có ở
La Gi là dân gốc xứ Quảng.
Nay
tất cả đã trở thành người con của đất La Gi, giản dị, khiêm tốn cho nên rất khó
thấy được cái nét riêng cho một địa phương đúng nghĩa, trừ cách phát âm về địa
danh La Gi (la di/ zi) để phân biệt với khách xa mới đến, chỉ gọi La Gi là
“la-ghi”, nghe lạc lõng! Đặc điểm khác, có lẽ người La Gi đã chắt lọc, tập họp
được những đức tính, lối sống có giá trị nhân văn của dân nhập cư khắp các vùng
miền và thừa hưởng một môi trường thiên nhiên hào phóng nên có tính hào hiệp,
thương người, cởi mở, cả tin, không so đo hơn thiệt, coi trọng thủy chung…Bản sắc
văn hóa, tính cách con người La Gi ngày xưa thường biểu lộ niềm tự hào truyền
thống “Ngũ Quảng lưu dân”, thì nay không còn ảnh hưởng lớn đến cộng đồng xã hội
nữa, bởi qua các thời kỳ cư dân tứ xứ đến đây với thái độ chọn lựa“đất lành
chim đậu”, thật sự đã dung hợp được một diện mạo mới của La Gi, bổ sung cho
nhau từ những giá trị tính cách vùng miền. Đó là đặc trưng văn hóa của một La
Gi ngày nay, hội nhập và sinh động.
Phan Chính
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét